Sài Gòn của tôi Ngày:
30-09-2006 Đề tài:
Văn hóa - Nghệ thuật Thinh Không Sài Gòn! Ôi! Cái
tên nghe sao mà nhớ thương. Gợi đến
biết bao nhiêu là kỷ niệm
êm đềm của thời trai trẻ. Cái
thời đẹp nhất của một đời người. Chắc ít có người Việt tị
nạn nào mà lại không một lần nghe đến bài hát
“Sài Gòn, niềm nhớ không tên”(1).
Tôi thì biết đến cái “niềm nhớ không tên” (hay
có rất nhiều tên?) này từ trước năm 75, lúc còn
chưa phải sống xa cách hàng ngàn dặm như bây giờ. Đó là những
năm 1974–75. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được
trưng tập vào quân đội. Khoảng gần giữa năm 1974,
tôi rời Trường Quân Y ở Sài Gòn ra đơn vị, về
phục vụ tại một Bệnh xá Dân Quân Y, thuộc tỉnh
Vĩnh Long. Vĩnh Long thì cũng không xa Sài Gòn là
mấy. Tôi lại được anh Bác sĩ trưởng Bệnh xá
thật tốt bụng, ưu ái, và thông cảm lứa tuổi
chưa biết lo (!), nên rất dễ dãi trong chuyện đi
phép của tôi (đúng ra anh chỉ ngó lơ, chứ chẳng cấp
chỉ huy nào cho “phép” kiểu này). Mỗi thứ Ba, tôi mới
từ Sài Gòn mò xuống Bệnh xá mà rồi sáng
thứ Sáu, tôi đã nôn nao (“Nếu chiều không hò hẹn,
đâu thấy lòng nôn nao!?”(2), thay vào bộ quần áo dân sự,
nhảy lên xe đò về lại Sài Gòn. Đường phố
Sài Gòn (1967) Nguồn/Ảnh: DCVOnline/Philip Pelino Jr.
“Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược Nước chảy ngược con cá vượt lội xuôi Anh với em xa cách ngậm ngùi Mong cho gặp mặt,
xác vùi cũng ưng” Thế mà, chẳng
bao lâu sau đó, hoàn cảnh đau thương của miền Nhưng rồi đến một lúc,
sau khi đã ổn định cuộc sống, sau khi cũng
đã hết lòng hết sức vì các ước vọng
chung của người tị nạn, giống như nhiều người
Việt hải ngoại, tôi nghĩ, Sài Gòn, Việt Tôi ra đi khỏi Sài
Gòn vào đầu thập niên 1980, lúc thành phố ở vào
thời kỳ thê thảm, tệ hại nhất về mọi
mặt. Tôi cũng
đã từng sống vài năm gian khổ tại đây sau năm 75
(vài năm kia phải “đẵn cây” trên rừng).
Dù thế, tôi vẫn còn nhớ tâm trạng
mình lần đầu về lại Sài Gòn, cuối
năm 1997. Tôi đã sửng sờ
nhìn thấy một Sài Gòn tiều tụy, nghèo
nàn, nhớp nhúa, bụi bặm và hoang vắng … dù thật
đông đúc. Trước mắt tôi, đôi lần, chỉ thấp
thoáng bóng của những con người, bơ
phờ, hốc hác, tất tả ngược xuôi, xa lạ, vô
hồn. Tôi ngỡ ngàng, thẫn thờ. Tôi đã mong ước được nhìn thấy lại
những tà áo trắng mượt mà Gia Long, Trưng Vương, Nguyễn
Bá Tòng. Ước thấy lại những
chiếc váy đầm nữ
sinh xinh xắn Nhà Trắng Saint Paul, Régina Pacis, Marie Curie của
một thời. Muốn bắt gặp lại những
ánh mắt đẹp kiêu sa, kênh kiệu, hớp
hồn cả đám học trò chúng tôi, từ trong những
chiếc xe hơi nhà buổi sáng đưa em đi học. Nhưng
đã không còn. Trong tâm trí tôi lúc đó, hình ảnh
còn tồn tại sau thời
gian dài biến động của đất nước và bản
thân, là những hình ảnh của Sài Gòn và người
Sài Gòn xinh tươi trước năm 75. Những
hình ảnh đẹp đẽ
của thời hoa mộng đã, một cách vô thức, ngự
trị, khống chế tâm tưởng tôi, xua dạt đi những
gì đau buồn, tệ hại của một thời
không đáng nhớ. Sau lần
về đầu tiên đầy thất vọng và tiếc nuối
đó, lạ thay, tôi lại nhớ mong Sài Gòn chỉ sau một
thời gian ngắn về lại Úc. Và rồi cứ mỗi
khi muốn đi nghỉ hè, nghĩ tới nghĩ lui, cuối
cùng tôi cũng lại về Sài Gòn. Từ cái lần đầu
chín năm trước đó, tôi đã về lại Sài Gòn nhiều
lần. Lần này dù sẽ đi nhiều nước Âu Mỹ, tôi
cũng ráng ghé qua Sài Gòn. Tôi về đến
Tân Sơn Nhất vào gần giữa trưa. Cảnh vật dọc
phi đạo vẫn như bị đóng chết trong khung thời
gian, của hơn ba mươi năm trước. Vẫn những chòi
canh han rỉ thời chiến tranh. Vẫn những hangar
máy bay thấp bé, với mái vòm cong, rong rêu, đen đúa. Bên
trong một số hangar có những chiếc máy bay trực
thăng của Liên Xô, nhỏ thó, cũ kỹ. Nhìn các trực
thăng tôi liên tưởng đến những chiếc xe đò nhỏ,
lẽ ra phải phế thải, ọc ạch chạy trên
những con đường đến các quận lỵ xa xôi trước
năm 75. Tại quầy
duyệt xét nhập cảnh, người sắp hàng lần này
không đông như những lần trước. Các ông công an cửa khẩu,
vẫn bộ mặt nghiêm nghị, trong quân phục màu xanh
quân đội, với cầu vai lon lá đầy đủ. Mũ kết
xếp thành một hàng dài ngay ngắn trên quày, cả ở
ô không có người ngồi kiểm tra. Tất cả những
hình ảnh đó vô tình (hay hữu ý?) tạo một
ấn tượng khá mạnh mẽ rằng mọi người sắp
đi vào một nước quân phiệt Nam Mỹ nào đó của thập
niên 1960–70, như trong các phim xi nê tôi đã xem. Tôi nghĩ, phải
chi họ mặc những đồng phục màu sắc nhẹ
nhàng hơn. Gương mặt, cử chỉ, thái độ tươi cười,
chào đón hơn có phải hay và đẹp không!? Những điều đó
đâu có khó huấn luyện, hay làm giảm giá trị vai
trò, hoặc ảnh hưởng đến nghiệp vụ, của
họ đâu. Đối với một số không ít du khách ngoại
quốc, đây là những người Việt Nam đầu tiên được
gặp. Đây là những người đại diện cho cả nước,
cả dân tộc Việt Nam được tiếng là thân thiện,
hiếu khách, chào đón du khách đến thăm quốc gia mình.
Sao lại làm người khách phương xa ngỡ ngàng, hụt hẫng,
thất vọng!? Không biết các ông có trách nhiệm có nghĩ
như tôi không? Dù sao lần
này cũng có những tiến bộ đáng kể. Một số
không ít nhân viên là nữ. Ánh mắt nhân viên không còn lạnh
lùng hay có thái độ quan liêu, hách dịch, thiếu nhã nhặn
(với cả khách ngoại quốc) như tôi bắt gặp ở
những lần trước. Chuyện xem xét giấy tờ
nhanh hơn (dù vẫn rất từ từ). Nhưng, vẫn chưa có
tiếng chào, tiếng cám ơn, và nụ cười. Cứ
nhìn thấy cảnh này là tôi buồn giận. Vì
khổ thay, cái xấu hổ là xấu hổ chung. Thủ tục
qua hải quan thì lần này trơn tru và nhanh nhẹn hơn
trước rất nhiều. Một tiến bộ đáng khen. Mà
sao là “hải quan” nhỉ? “Hải” ở đây nghĩa là
gì? Đâu có chút xíu “biển” nào tại phi trường Tân Sơn
Nhất đâu? Hay là “hãi quan” cho “cửa ngõ hãi
hùng”? Đã đầu
tháng Sáu. Vào buổi chiều, Sài Gòn hay có những cơn
mưa. Có khi mưa như trút nước, không dứt. Ở Úc, ít khi tôi thấy
có những cơn mưa tầm tã, mịt mù, “giăng kín đường
về”(3) này. Thành phố nơi tôi ở, khô hạn kéo dài gần
một năm qua làm các hồ chứa nước đều gần cạn.
Ở Sài gòn, sau cơn mưa lớn, đường phố một
số nơi lại biến thành hồ cạn. Tuy nhiên, sau cơn
mưa, trời mát dịu lại nhiều, khá dễ chịu.
Cho nên, nếu lỡ “trời không mưa, tôi cũng lạy trời
mưa”(4). Chuyện
lưu thông trong thành phố SàiGòn thì chắc nhiều
người đã biết hay nghe nói. Đông đúc, chen lấn, luồn
lách, hỗn độn, không trật tự hay tôn trọng luật
lệ gì cả. Kỷ luật giao thông thật kém. “Tháng sáu trời
mưa, trời mưa không ngớt, Trời không mưa
anh cứ lạy trời mưa …” Nguồn:
i6.photobucket.com Tình trạng
nay có khá hơn những năm trước, nhưng cũng còn rối
rắm, nhất là tại các “bùng binh”. Có khá nhiều xe
buýt, sau nhiền năm vắng bóng, nay vận hành trong
thành phố. Giá nghe nói tương đối rẻ, chạy thường
xuyên trên nhiều tuyến, và đến tận ngoại ô. Một
chủ trương thức thời. Nhưng xe gắn máy vẫn tràn
ngập các con đường, từ sáng sớm cho đến 9–10 giờ
đêm. Mỗi năm, trên cả nước có hơn 12 ngàn người chết
vì tai nạn giao thông thì thật là quá mức (thống
kê mới nhất của 6 tháng đầu năm 2006 cho thấy số
tai nạn có giảm nhưng số người chết vẫn
không giảm). Mỗi tháng có hơn 1 ngàn người tử nạn.
Khủng khiếp! Sài Gòn cũng góp vào thống kê trên một
con số không nhỏ. Không chỉ riêng kỷ luật giao
thông, mà nói chung, ý thức kỷ luật công dân tại
Sài Gòn bây giờ tệ hại hơn trước 75 rất
nhiều, vì kỷ cương xã hội hầu như sụp
đổ. Và hệ thống giáo dục, trong rất nhiều
năm, đã không chú trọng gì đến điều này. Chẳng
“giáo dục công dân”, mà chỉ quan tâm nhồi nhét vào đầu
học sinh ba điều chủ thuyết lỗi thời, hoang
tưởng. Chủ tâm và ưu tiên có lẽ nhắm vào việc đào
tạo những kẻ trung thành hơn là những công dân tốt. Ở Sài
Gòn đông đúc này việc di chuyển, đi lại rất bất
tiện, mất thời giờ. Sau vài lần về, tôi cũng
bắt đầu chạy chiếc xe gắn máy của đứa
em cho mượn. Tôi ít đi taxi vì nó tốn kém mà lại chậm
chạp trên đường phố lúc nào cũng đông nghẹt xe. Dù
sao thì tôi cũng từng là thổ địa nơi đây, khá
rành rẽ đường lối. Có điều tôi không thể nào nhớ
nổi các tên đường mới được thay sau này. Nhiều
tên lạ hoắc, không biết là ai (tôi cũng chẳng
tò mò tìm hiểu là ai). Rồi lại những
con số, ngày tháng lấy làm tên đường, nghe không quen, không
nhớ, lẫn lộn, rối mù. Khi về
trong nước tôi hay đọc các tờ báo như Tuổi trẻ,
Thanh Niên (tôi cũng thường xem trên mạng lúc ở nước
ngoài). Hai tờ báo trên là những tờ báo, theo tôi, nay có sự
thông tin tương đối khá nhanh nhạy, ít gạn lọc (so với
ngày trước). Có tư tưởng khá độc lập trong cách đưa tin
và đặt vấn đề. Có một sự cởi mở khá
rõ nét và mạnh dạn, kể cả các vấn đề
“nhạy cảm”. Nhiều tờ báo khác thường né tránh các
đề tài này, hay có đề cập đến thì chỉ nói
một chiều, chỉ ca tụng đến phát nản. Hay chỉ
có những lập luận xưa cũ, không thuyết phục.
Hai báo trên cũng khá mạnh dạn trong việc đăng tải
các bài đóng góp ý kiến cho các diễn đàn (hay các ý
kiến phản hồi), từ các độc giả thuộc
nhiều giới, nhiều khuynh hướng, từ cả trong
lẫn ngoài nước. Thí dụ
trong ngày 28/5/06, tờ Thanh Niên đã đăng trong mục diễn
đàn “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” một bài
góp ý tựa là “Phải vượt qua nỗi sợ hãi.”
Bài viết: “…Nỗi sợ hãi chính là trở
ngại lớn mà chúng ta cần phải vượt qua nó. Chừng
nào nỗi sợ hãi bé đi thì chúng ta mới lớn
lên được.” Bài viết
dù không nói cụ thể đến sự việc gì, nhưng ở
đây theo tôi, chi tiết đó không quan trọng. Lời khuyên “Phải
vượt qua được nỗi sợ hãi” là điểm cốt
lõi, là tinh thần của bài góp ý. Trong thời
gian gần đây, có rất nhiều người trong nước
đã mạnh dạn, dũng cảm, minh danh cùng ký
tên vào các tuyên ngôn đòi hỏi những ước vọng
chân chính cho mình, cho đồng bào. Họ chẳng phải
là “nhà đấu tranh” kiên cường, dày dạn hay nổi tiếng
gì cả, mà chỉ là những công dân bình thường.
Cứ đặt mình ở vào vị trí họ trong hoàn cảnh
hiện tại trong nước sẽ thấy cái dũng khí to
lớn như thế nào. Họ đã vượt qua được nỗi
sợ hãi. Trong niềm kính phục sâu xa, với tôi, họ
là những sĩ phu, hào kiệt của đất nước thời
nay. Đúng như Nguyễn Trãi đã viết: “Vận nước có lúc cường, lúc nhược Nhưng anh hùng, hào kiệt thời nào cũng có” Cũng
trong mục ấy, có một bài góp ý khác của một
người ký tên Nhất Chi Mai. Tác giả viết: “Ta vẫn
thường nhắc tới lịch sử chống giặc
ngoại xâm hào hùng, nhắc tới tinh thần đoàn kết
dân tộc nhưng sau những chiến thắng oai hùng đó ta lại
tự mình làm bé mình… Về mặt địa
lý, dân số và lịch sử, Việt Nam là một nước
không nhỏ, nhưng là một nước đang ngủ quên trên những
chiến tích… Cần lắm một cơ chế ràng buộc
trách nhiệm và cần lắm sự cương quyết của
những nhà lãnh đạo, với sự sáng suốt và
quyết đoán” (tôi ghi chữ nghiêng đoạn cần nhấn mạnh). Nếu ở
hải ngoại thì nội dung những lời đóng góp
ý kiến trên cũng bình thường. Nhưng trên một
tờ báo trong nước, có thể xem là những đóng góp rất
thẳng thắn, mạnh dạn. Đăng tải nó là một
thay đổi tư duy đáng để ý của Ban biên tập.
Không chỉ còn là những bài ca tụng sáo rỗng thường
thấy trên báo như trước. Tôi khá tâm đắc với những
ý kiến này. Nhưng từ lâu tôi không thích từ “cơ chế”
thường được dùng. Nó mơ hồ, thấp bé và giới hạn. Ai cũng
biết là quyền lực làm tha hóa con người, cho dù con người
đó trước khi nắm quyền lực, là một con người
toàn thiện, có chủ tâm vì người khác mà phục vụ.
Cũng đừng nói chi đến quyền lực to lớn tột
cùng của cai trị quốc gia ở Việt Nam, thường
với quyền sinh sát trong tay cùng bao cám dỗ lợi lộc
to lớn. Ngay cả với những tập thể nhỏ
như một Hội Đoàn, một Cộng Đồng Người Việt
ở hải ngoại, qui luật đó cũng thường được
thể hiện và minh chứng khá rõ ràng. Do đó, trước
khi cần đến sự cương quyết, sáng suốt và quyết
đoán của lãnh đạo nào đó, như trong bài viết nói trên,
Việt Nam cần có một hệ thống chính quyền
pháp trị có thể hổ trợ, bảo vệ và thực
thi được những đức tính này. Và cần có một hệ
thống chính trị có thể giám sát, ràng buộc trách nhiệm
cùng xiển dương các hoạt động điều hành đất nước.
Cụ thể hơn thì đó phải là một thể chế
dân chủ. Thiếu điều kiện này, tôi nghĩ, quyền
lực rồi sẽ làm tha hóa hầu như bất cứ ai. Về Sài
Gòn tôi hay đi nghe nhạc. Tôi đã đến hầu hết
những phòng trà nổi tiếng tại Sài Gòn như
Tiếng Tơ Đồng (đã đóng cửa), M&Tôi, Yesterday, Đồng
Dao (đã đóng cửa), Ánh Tuyết, 2B, và nhiều nơi nữa.
Ngoài chuyện giải trí, thưởng thức văn nghệ,
vì thích nghe nhạc, tôi cũng muốn xem bài nhạc của
nhạc sĩ nào ở miền Nam trước năm 75 được cho
phép trình diễn. Để qua đó đo lường (phần nào
đó, tôi nghĩ) mức độ cởi mở chính trị ở
Việt Nam. Tôi thấy thật là điều khắt khe vô
lý của chủ trương kiểm duyệt văn hóa này, mà tự
thân chủ trương lại … kém văn hóa. Mang tính trừng phạt
và tưởng thưởng vì quan điểm và thái độ chính trị
của tác giả hơn là vì nội dung bài hát. Thời
gian gần đây, mỗi lần tôi về, lại thấy có một
số bài hát, của những nhạc sĩ miền Nam cũ,
được cho phép hát lại. Khá nhiều! Những tình
khúc của các nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ
Công Phụng, Phạm Đình Chương, rất được ca sĩ
lẫn người nghe ưa chuộng. Lần này,
lần đầu tiên, tôi nghe một bài hát của nhạc sĩ
Lam Phương tại một phòng trà (tên tác giả không được
giới thiệu). Tôi yêu mến dòng nhạc tình cảm,
rất thiết tha và cũng rất nhân hậu của ông.
Nhạc của ông bị cấm lâu có lẽ, tôi đoán
mò, vì người ta “giận” ông nhiều. Nhất là
vì cái câu: “Bao
năm giải phóng như thế này phải không anh?…” trong một
bài hát(5) có ca từ rất chua chát về Tây Đô Cần Thơ
(như: “Ngày xưa ta quen từng viên đá nơi sân trường. Nay sao nghe
khác từng tên đường”). Ai từng ở
đảo Bidong chắc đều có một lần nghe bài hát của
ông (“Đường Về Quê Hương”) với các câu “Biết
bao giờ trở về Việt Nam, thăm đồng lúa vàng, thăm
con đò chiều xưa? Biết bao giờ ta lại gặp
ta …?” được ban
điều hành trại tị nạn phát lên hệ thống loa
của trại mỗi khi có nhóm người tị nạn rời
đảo đi định cư. Nghe não nuột, tuyệt vọng,
buồn thúi ruột lúc chia tay, trong hoàn cảnh tha hương không
mong có ngày về lúc đó. Có vài bài báo
ở trong nước, tôi nghĩ là đã không thành thật,
khi gần đây gọp các tình khúc của các nhạc sĩ
trên (và của nhiều người nữa) và gọi chung là nhạc
tiền chiến. Đâu có “tiền”! Tôi nghĩ “nhạc tiền
chiến” được hiểu là trước thời chiến tranh
Việt Pháp 1946–1954. Hay ít ra cũng trong thời gian đó. Hầu như
toàn bộ tình khúc của các nhạc sĩ miền Nam
trên lại được sáng tác “trong” thời chiến 1954–75 kia
mà. Tình yêu lứa đôi, cùng với tình yêu quê hương, đất
nước, tại miền Nam, vẫn tràn đầy. Vẫn được
nhắc nhở, ca tụng, dù trong thời chiến tranh máu
lữa, khốc liệt. Tôi nhớ
cách đây 4–5 năm, tại phòng trà Tiếng Tơ Đồng vào mùa
Giáng Sinh, tôi đã nghe Thanh Lam hát “Bài Thánh Ca Buồn”(6) (“Bài
thánh ca đó còn nhớ không em? Noel năm nào chúng mình có
đôi …”) đầy kỷ niệm. Lâu lắm rồi tôi mới
nghe lại bài hát này, qua một giọng ca thật điêu luyện
và truyền cảm. Trong khoảnh khắc, cả một trời
kỷ niệm ùa về. Tôi chợt như được sống lại
những mùa Noel Sài Gòn háo hức, nhộn nhịp, rộn
ràng, hồi hộp, tuyệt vời của những năm nào ở
tuổi đôi mươi. Khi nghe lại một bài hát gợi nhiều
kỷ niệm, lòng mình xao xuyến vô cùng. Dù đôi
khi sự gợi nhớ dĩ vảng cũng làm lòng
mình chùng xuống. Trường trung học
Petrus Ký: “Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt–Tây
Âu khoa học yếu minh tâm” Nguồn: DCVOnline
Trên đường
từ nhà em tôi, nơi tôi trú ngụ, ra trung tâm Sài Gòn, tôi
thường chạy ngang trường Trung học Petrus Ký cũ
của mình. Ngôi trường tôi có rất nhiều kỷ
niệm với lũ bạn xôn xao những mối
tình đầu. Lần nào đi qua tôi cũng nhìn vào cổng
trường xem sao. Nhìn hai hàng cây sao cao to bên hông trường,
nơi ngày xưa là bãi đậu xe của học sinh, tôi lại
nhớ đến Thầy Tổng giám thị Chương. Thầy hay
đứng sau gốc các cây sao trên, để chụp bắt phạt
học trò nào không mặc đồng phục, đang dắt
xe vào trường. Trường tôi có tiếng rất nghiêm về
kỷ luật là nhờ các thầy giám thị. Tôi có lần
cũng bị Thầy Chương chụp bắt lên văn phòng,
không phải vì chuyện đồng phục, mà vì tội
để tóc dài. Tôi né trốn thầy hoài mà rồi cũng
không thoát. Thầy Chương
trong lớp dậy Pháp văn Nguồn: petruskylhp.org Trường
tôi nay đã đổi tên là Lê Hồng Phong. Bây giờ có cả
nữ sinh. Tôi không phản đối chủ trương trường hỗn
hợp nam nữ. Cũng có cái hay của nó. Nhưng để phá vỡ
cái truyền thống của biết bao năm không vì một
lý do thiết yếu thì tôi không đồng tình.
Trường Nữ Trung học Gia Long cổ xưa, truyền thống
cũng thế. Nay có cả nam sinh và cũng đã bị đổi
tên. Về Sài
Gòn lần nào tôi cũng đi vào các tiệm sách, xem sách,
mua sách. Bây giờ thì có khá nhiều nhà sách, thường rất
lớn. Nhà sách Khai Trí ở đường Lê Lợi đã mở
cửa lại nhưng mang tên Sài Gòn. Có nhiều tiệm
sách nhỏ của tư nhân, dọc hai bên đường Hồng Thập
Tự cũ, đoạn gần đường Nguyễn Thiện Thuật.
Nơi đây có bán sách cũ, mới và giảm 20–30% trên giá bán, không
như ở các tiệm lớn. Có khá nhiều tựa sách, bao gồm
nhiều lãnh vực. Nay có rất nhiều tác giả
trong nước tôi không quen tên. Sách của các nhà văn nhóm Tự Lự
Văn Đoàn, hay các nhà văn, nhà thơ vào thời đó, cũng đã được
in lại từ nhiều năm trước. Mỗi lần về
lại thấy có ấn bản mới, to hơn, đẹp hơn. Có
lẽ nhà văn, học giả Nguyễn Hiến Lê có nhiều
sách in lại nhất (ngoài ông và nhà văn Sơn Nam, còn mấy
sách nào của các tác giả miền Nam được phép in lại?!?).
Giá sách nói chung thì rất rẻ so với mức thu nhập
ở nước ngoài (vào khoảng 3–4 Úc kim/quyển). Nhưng như
thế cũng tốn đến một, hai ngày lương công nhân
trong nước. Một số sách của, hay về, các nhà văn,
thơ của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần
Dần… cũng có được in lại. Nhưng vẫn đuợc lọc
lựa bởi cái sàng chính trị. Nội dung các sách này, mà
tôi được đọc, thì không gì hay, phiến diện
và không giống như tôi đã đọc về các ông trước
năm 75 hay ở hải ngoại. Tôi nghĩ người ta
đã sai lầm khi cố tình chỉ lọc lựa
đưa ra, theo ý mình, một vài quan điểm thuận lợi
nào đó từ các ông, ở giai đoạn thích hợp nào đó của
cuộc đời các ông. Vắng đi hay lướt vội qua các dằn
vật chuyễn đổi về tư tưởng, cùng cuộc sống
bất hạnh, đầy nhọc nhằn, cay đắng mà các
ông và người thân đã trải qua hay gánh chịu. Thời
đại này khó có thể giấu diếm được điều
gì. Mà mập mờ nói có phân nửa thì chỉ phản
tác dụng. Quyển
“Nhật ký Đặng Thùy Trâm” được bày bán nhiều. Tôi
cảm phục và kính trọng lòng hy sinh của cô mà cũng
thương cho cô. Một lý tưởng không tròn. Có sách mới
của nhà văn Bùi Ngọc Tấn (“Viết cho bè bạn”).
Nhưng không có quyển “Chuyện kể năm 2000” của ông mà tôi
rất thích. Nội dung quyển sách mới thì
bình thường, thậm chí nhạt nhẽo. Toàn bộ
tinh túy và tâm huyết của ông đã dồn hết vào quyển
kia rồi. Có thấy tập truyện ngắn “Bóng Đè” gây
nhiều tranh luận của nhà văn nữ trẻ Đỗ
Hoàng Diệu.
Nguyễn Ngọc Tư Có nhiều
quyển sách mới tái bản của nhà văn nữ trẻ
Nguyễn Ngọc Tư, nổi tiếng với chuyện “Cánh
Đồng Bất Tận”, được bày bán. Mới đây thôi, cô bị
Sở Thông Tin “ Văn Hóa Cà Mau, nơi cô sống và công tác, phê
bình, kiểm điểm, khiển trách, qui chụp,
đòi khai trừ, cách chức, đuổi đi khỏi tỉnh
gì đó (tôi kể dám còn thiếu). Nhưng không ngờ,
cô được độc giả phản ứng với hàng trăm
ý kiến bênh vực mạnh mẽ trên các báo. Thêm nữa,
báo Tuổi Trẻ và vài nhà xuất bản khác, còn ra mặt
ủng hộ, tái bản ào ạt (có sách ghi chú tái bản lần
thứ năm) các sách bị phê phán của cô. Đáng chú ý là
các “ông quan văn hóa” (chữ trên báo trong nước) Cà Mau bị độc
giả khắp nơi chỉ trích kịch liệt về các quyết
định này, thậm chí còn chê bai, dè bỉu khả năng,
trình độ của các ông. Cái bóng con đường đen tối
của Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, v.v… những tưởng
…, đã không lập lại. Sự thông tin rộng
rãi, thông suốt, nhanh nhạy của thời đại
internet, thời toàn cầu hoá, đã không cho phép điều đó
lập lại. Nguyễn
Ngọc Tư tự nhận định văn chương của cô (và cả
bản thân) như trái xoài riêng. “Có người thích, có người
chê”. Nhưng cô “chẳng bẻ mình bẻ mẩy để lấy
lòng người” (mấy câu này có in trên bìa sau sách
rõ ràng). Các nhà văn, nhà thơ đều khí khái giống nhau: “Dù ai ngon ngọt nuông
chiều Cũng không nói yêu thành ghét Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêu”(7) Miền Nam
nói chung và Sài Gòn nói riêng đã mở rộng vòng
tay, ưu ái đón chào lưu dân tứ xứ, từ nhiều trăm năm
trước. Tôi thấy ngày nay Sài Gòn vẫn còn cái
truyền thống đó. Tôi đã gặp rất nhiều người
bán hàng rong, lao động, tài xế, bán hàng, v.v… trên khắp đường
phố Sài Gòn, đến từ nhiều miền xa xôi
ngoài Bắc. Mấy ngày trước, trên một xe taxi, nghe anh
tài xế nói giọng “miền Bắc 75” (cái giọng cao,
nhanh và chua đặc trưng không lẫn được; không êm ái, ngọt
ngào, thanh lịch như đa số người “miền Bắc 54”),
tôi đã tò mò hỏi thăm anh quê ở nơi nào ngoài
Bắc, vào đây lâu chưa. Anh nói từ Hà Tây. Cả gia đình
bốn người vào đây sống đã tám năm rồi. Tôi hỏi
anh thấy cuộc sống nơi này, dân tình thế nào
thì anh phán câu “đất lành chim đậu” làm tôi mát cả ruột.
Tôi còn trao đổi với anh đôi điều và anh cũng đồng
ý với tôi. Tôi cũng đã nhiều lần nói chuyện
với nhiều người có hoàn cảnh như anh. Họ cũng
đồng ý, hay rồi cuối cùng cũng đồng
ý, giống như anh. Vùng đất
miền Nam trù phú, hiền hòa, trong đó có Sài Gòn,
đã sản sinh tư tưởng, giáo dục nếp sống, dịu
hiền, đôn hậu, trọn tình, trọn nghĩa như
trong các câu ca dao: “Đèn Sài Gòn ngọn
xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ tho ngọn
tỏ ngọn lu Anh về học
lấy chữ nhu Chín trăng em đợi,
mười thu em chờ” Tổ tiên
tôi, nghe người lớn kể, cũng là người đàng ngoài,
vào Nam lập nghiệp từ hàng trăm năm trước. Nhưng cũng
rất nhiều năm sau những nhóm di thần nhà Minh từ
nước Trung hoa xa xôi do Mạc Cửu, Trần Tiễn
Thành, Dương Ngạn Địch, Trần Đại Xuyên cầm đầu
chạy sang trú ngụ. Và từ những đợt di dân, tị
nạn sau nhiều cơn biến loạn ở Trung Hoa sau đó. Rồi
thời năm 54 (mới đây mà đã hơn 50 năm rồi!), cả
triệu đồng bào miền Bắc cũng di cư vào Nam lập
nghiệp. Tất cả, cùng với dân Khờ me tại địa
phương, đã tạo thành một tập hợp với nhiều
ưu tính của từng sắc dân. May mắn được sống
trong một vùng đất trù phú, họ đã hình thành một
tập thể “người miền Nam” hiền hòa, nghĩa
khí. Và Sài Gòn, đã và sẽ mãi vẫn là cái nôi
văn hóa, là thủ phủ của miền Nam nhân bản này. Có lẽ
tôi có thể kể những cái dở, cái xấu, cái nghịch
lý, bất công hiện nay ở Sài Gòn cả ngày
không hết. Tuy nhiên, cũng phải công bằng mà nói,
đã có những tiến bộ trong mấy năm qua. Đã
có lại những con đường sạch sẽ với hàng cây
xanh, luống hoa được chăm chút. Những cửa hàng quần
áo sáng sủa, chưng bày thật mỹ thuật, đẹp mắt
như trên đường Võ Tánh cũ (nay là Nguyễn Trãi nối
dài), con đường quen thuộc của tôi. Những nhà hàng,
quán cà phê thiết trí trang nhã với nhân viên trong các bộ
đồng phục thẳng thóm, đúng cách, phục vụ chu đáo,
lễ độ. Những khuôn mặt đâu đó trên đường phố
tươi vui, xinh xắn, trong các bộ áo quần tươm tất, lịch
sự, hợp thời. Có những câu chào, những nụ
cười. Không nhiều, không đồng bộ, nhưng đã có. Nhưng, cho dù
Sài Gòn ngày nay không được như trước năm 75. Đã làm
tôi tức mình, buồn bực, tiếc nuối
hình ảnh quá khứ, vẫn gắn chặt với
lòng tôi (chắc cũng giống như Hà Nội vẫn sống
trong lòng người dân, nhà văn, nhà thơ miền Bắc di cư
vào Nam thời năm 54). Cho dù quán La Pagode không còn, rạp
mini Rex đã dẹp, tiệm kem Hoàng Gia trên đường Tự
Do biến mất, tôi vẫn như còn thấy cái hồn
Sài Gòn ngày xưa của tôi còn vương vất trên các con
đường, góc phố. Cho dù người ta đã thay đổi hầu
hết tên những con đường (đọc hoài không nhớ), tôi
vẫn gọi bằng tên cũ. Vẫn Hiền Vương, Gia
Long, Duy Tân, Thống Nhất, Hồng Thập Tự, Công
Lý, Tự Do. Tôi vẫn muốn thủy chung với Sài
Gòn của tôi. Tôi có quá nhiều
kỷ niệm ở nơi này để mà tôi có thể quay lưng, xóa
đi quá khứ, giận dỗi không đoái hoài. Tôi vẫn cứ
muốn về thăm lại Sài Gòn. Vẫn muốn thấy
nhiều người Sài Gòn xa xứ trở về thăm lại
thành phố này. Vì tôi tin rằng, một ngày không xa, Sài
Gòn ngày xưa của tôi sẽ trở lại. Chính sự
về thăm lại Sài Gòn của những cựu dân nơi
này sẽ có ảnh hưởng, không nhiều thì ít, trực
tiếp hay gián tiếp, hữu ý hay vô tình, làm sống
lại nhanh hơn cái hồn, cái chất, cái cung cách, lối sống
của Sài Gòn năm xưa. Tôi nghĩ và tin như thế, dù biết
có người không đồng ý. Tôi tin tính nhân bản cuối
cùng sẽ thắng. Người Sài Gòn có truyền thống
yêu chuộng Tự Do, Dân Chủ, luôn đề cao cùng sống
theo những giá trị này. Nếu sự
khôi phục không thể kịp cho tôi thì cho thế hệ
kế tiếp, cũng tốt thôi. Tương lai của hàng triệu
người Sài Gòn trẻ tuổi, thực tế, sẽ
không ở nơi đâu khác hơn là tại Sài Gòn, tại Việt
Nam. Để cho họ được sống trong một Sài Gòn
như tôi đã từng sống. Một Sài Gòn tươi đẹp,
sung túc, thanh lịch và văn minh. Để họ có được cái may
mắn như hàng bao lớp thanh niên chúng tôi, đã thương yêu Sài
Gòn như người yêu và được Sài Gòn đền đáp lại
bằng những ánh mắt, nụ cười, giọng nói ngọt
ngào, cách cư xử chân tình của bao nam thanh nữ tú. Cũng
như đã đem đến cho chúng tôi những nơi chốn gặp
gỡ, hẹn hò thơ mộng, mà hình ảnh, kỷ
niệm, khắc sâu trong tim, mãi không rời. Viết tại Sài Gòn, đầu tháng Sáu, 2006. Hiệu
đính đầu tháng Tám, 2006, Úc. Copyright © 2006 DCVOnline (1): Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn (2): “Nếu biển không có sóng, biển đâu
còn dào dạt. Nếu chiều không hò hẹn, đâu
thấy lòng nôn nao. Nếu đời không tình yêu, biển
sẽ không có sóng. Nếu chiều không gió lộng thì tóc
em đâu có bồng bềnh...” Nếu biển không có sóng, nhạc Từ
Huy (3): “Anh muốn cùng mây giăng kín đường về, Gọi tên em, gọi tên em cho nát bờ môi ấy
...” Tình khúc tháng 6, nhạc Ngô Thụy Miên (4): “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt,
Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa …” Tháng Sáu Trời Mưa, thơ Nguyên Sa (5): Bài “Chiều Tây Đô” (6): Nhạc sĩ
Nguyễn Vũ (7) Thơ, “Lời Mẹ Dặn” của Phùng
Quán Thinh Không main menu < |