Taberd Ra Khơi
(trích
đăng từ báo Calitoday)

ảnh minh họa của UNHCR
(The United Nations High Commissioner for Refugees.)
* Viết
để vinh danh, tưởng niệm Thuyền
Nhân Việt Nam, những người đã hy sinh gia tài, sự
nghiệp, tiết hạnh, nhân phẩm, mạng sống,
trên đường vượt Biển Đông tìm tự do
sau khi cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam Việt
Nam năm 1975. Họ, các anh hùng vô danh thời hậu
chiến.
Viết từ một câu
chuyện có thật
nhưng vì lý do an ninh tác giả đã thay đổi địa
danh, tên gọi của nhân vật. Nếu có sự trùng
hợp nào với độc giả bên ngoài thì đó chỉ
là một tình cờ ngẫu nhiên, tác giả xin thành thật
cáo lỗi và hoàn toàn không chịu trách nhiệm về những
điều trên. Viết lại theo sự khuyến khích của bạn Phạm
Xuân Chử.

Mỗi khi nhắc đến
ngày 30-04-1975, hầu như mọi người Việt ở
vào lứa tuổi từ bốn mươi trở lên sống
trong lẫn ngoài nước đều nhớ ngay tới
các sự kiện lớn lao sau cơn gió bụi đó
như chuyện những
Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hoà bị lừa
đi học tập cải tạo mười ngày, chuyện đổi tiền, chuyện đánh tư sản mại bản,
bài trừ văn hoá phẫm đồi trụy, đi vùng
kinh tế mới, vượt biên, chuyện
người Hoa bị đuổi về nước.v…v… do
chính phủ cộng sản gây ra.
Tuy nhiên trong các biến cố ấy thì tù cải tạo và
vượt biên là hai chuyện
đau khổ kéo dài trong nhiều thập niên và đã để
những lại hậu quả tang thương, thê thảm
nhất đến tận ngày hôm nay cho biết bao gia
đình Miền Nam chúng ta.
Nước trong sông phải chảy theo giòng. Vào cái
thưở mà dân chúng hốt hoảng, nháo nhào tìm đường
chạy ra biển trốn tránh sự trả thù, ngược
đãi của chính quyền trong những năm cuối của
thập niên bảy mươi và cho đến hết thập
niên tám mươi thì tôi cũng được ba tôi đôn
đáo kiếm chỗ cho đi vượt biên. Sau
mười lăm chuyến
thất bại trong hơn mười năm, tôi đã bị
bắt hai lần và mất hơn bốn năm ở các trại
tạm giam từ T20 (Số 4 Phan Đăng Lưu), tới
T30 (Chí Hoà cũ) của Sở Công An Thành Phố Hồ Chí
Minh, đến trại cưởng bức lao động
Đồng Phú…thì đã trở nên rất là “lì lợm!”
Ai từng vượt biên hẳn cũng đồng ý với
tôi rằng vượt biên cũng như ma túy vậy,
đi riết rồi ghiền! Dân nghiện thì ngày tối
chỉ tưởng nhớ đến nàng tiên Nâu còn đám
vượt biên chúng tôi lúc nào cũng mãi lo nghĩ đến
ghe tàu, bến bãi mà bỏ cả công ăn việc làm, hy
sinh hết gia tài sản nghiệp vào đấy. Vì tự
do, tôi đã chọn biển làm sinh lộ của
tương lai dù biết đó là một lựa chọn
mong manh, vô cùng nguy hiểm bởi mười người
ra đi thì may mắn lắm mới có được một
kẻ đến được bến mơ! Đa số
đều chết bởi phong ba bão táp hay hải tặc,
đói khát. Số khác thì mất tích, lỗi hẹn bao
ước nguyện, lời thề. Nhà tù, trại giam
thời gian này đầy ắp người vươt
biên bởi dân chúng không có một lối thoát nào khác hơn.
Cuối tháng 10 năm 1988 tôi lại lên đường.
Đây là chuyến
đi lần thứ mười chín của tôi. Và chuyến đi này đã để lại
nhiều hãi hùng với những kỷ niệm đau khổ
luôn in sâu trong quãng đời vuợt biển, vĩnh viễn
không bao giờ phôi phai trong ký ức của tôi. Ngày
đó ghe tôi xuất phát từ Bà Rịa-Vũng Tàu trong
đêm tối mịt mờ một cách êm ả không ngờ.
May mắn này làm tôi ngỡ ngàng và bùi ngùi khi nhìn thấy
ngọn hải đăng dần dần mất hút phía sau
vì tưởng rằng mình sẽ chẳng còn trở lại
chốn này. Ghe càng ra xa sóng càng lớn và nhồi con tàu
mỗi lúc một nhiều hơn. Đến khi nước
bắn lên văng vào người nhiều quá, tôi đành
chui trở xuống khoang, mệt nhoài dần và hôn mê tự
lúc nào không hay. Thỉnh thoảng tôi nhỏm dậy,
cong người lại ói mửa. Miệng đắng
ngét. Chẳng biết đến bao lâu trong khi đầu
óc chập chờn nửa tỉnh nửa mê tôi bỗng nghe
có tiếng ai từ trên boong hỏi vọng xuống:
- Dưới này có ai là hải quân biết lái tàu của chế
độ cũ không?
Không một tiếng trả lời. Tất cả
đều im lặng như tờ. Hơi thở nặng
nhọc, đầu óc tôi lơ mơ rồi ít phút sau đó
thần trí chợt bừng tỉnh. Tôi giật mình hốt
hoảng khi nhận thức được câu hỏi kia.
“Đã có chuyện gì xảy
ra rồi sao? Tài công bị nạn à? Tại sao có
người lại hỏi thế hay là ghe không có tài công?”
Nghĩ đến đó tôi giật mình sợ hãi, đứng
bật dậy theo một phản xạ tự nhiên của
sự sinh tồn và bước về phía phát ra tiếng
nói ban nãy nhưng chỉ được một bước
là tôi bị quật ngã nhào, đầu đập vào lườn
ghe vì con thuyền chao đảo.
Cái ngã đau điếng làm tôi tỉnh hẳn để
biết rằng ghe tôi đang đi trong giông bão. Giữa
bóng tối mà dù lật ngửa bàn tay cũng không thấy gì
ấy tôi không nghĩ ngợi gì thêm mà cứ đạp bừa
lên đám người đang nằm mê man hỗn loạn
như các xác chết kia để chui lên trên. Bấy giờ
tôi mới biết rằng dưới khoang hầm rất
đông người, họ nằm chật cứng và chồng
chất lên nhau.
Khi đẩy được nắp hầm sang một bên
và ló đầu lên trên, cảm giác khủng khiếp lúc chứng
kiến quang cảnh bên ngoài mà cho đến bây giờ tôi vẫn
chưa hết rùng rợn bởi qua ánh đèn bão đang
treo lắc lư trong ca-bin tôi thấy từng con sóng to
như những cái nhà lầu ba bốn tầng đang
đua nhau chồm tới phủ chụp lấy chiếc thuyền nan. Bọt sóng trắng
xóa, vỡ tung toé sau sàn ghe. Mưa tuôn như trút.
Sét đánh ầm ầm. Gió giật từng
cơn, thổi vùn vụt, hú lồng lọng tạo nên các
tiếng rít sắc nhọn như muốn xé không gian và quất
vào mặt tôi đau buốt. Bên trong ca-bin vắng ngắt
chẳng có ai. Người ta dùng sợi dây thừng bằng
nhựa giữ lấy cần lái và cột hai đầu
vào hai bên vách rồi bỏ mặc chiếc ghe chạy trong
bão tố. Nghe tiếng máy gầm rú trong đêm, qua ánh
sáng lóe lên từ những sấm chớp tôi có thể nhìn thấy
con thuyền đang chồm
lên hụp xuống theo cơn sóng dữ. Nó nghiêng trái ngã
phải, lúc thì bị đưa tít lên cao khi lại rơi
xuống tận sâu thẳm của lòng biển đen ngòm
để rồi bị sóng đập rầm rầm khiến
chiếc ghe kêu răng rắc như sắp vỡ, tôi rợn
người vì nó có thể bị chìm bất cứ lúc nào!
Chưa kịp định thần, một ngọn sóng cực
to ập tới. Ngay tức khắc người tôi
ướt nhẹp vì bị dội bởi một cột
nước khổng lồ. Vuốt mặt mấy cái
liền, tôi phóng vội lên trên đồng thời đóng
nhanh nắp hầm lại bởi sợ nếu thêm một
cột nước nữa mà ụp xuống thì con tàu sẽ
chìm ngay. Đang lúc còn phân vân chưa biết phải làm
gì trước tình thế vạn phần nguy nan ấy thì
ghe bỗng khục khặc mấy tiếng như người
đau nặng rồi ngưng hẳn. Mới trước
đây nó còn như con ngựa bất kham hùng hổ xông tới
mà giờ đây khi vừa chết máy thì hiền lành như
chiếc lá trôi vật vờ mặc cho gió đẩy sóng
đưa một cách oan nghiệt như mèo vờn chuột.
Cứ thế con tàu bồng bềnh, tử thần
như lởn vởn đâu đây. Gió thét, mưa gào
làm tôi run bần bật nhưng vẫn cố bám sàn tàu vì
nghĩ tàu sẽ chìm và ở trên này tôi có thể ôm lấy vật
gì đó cũng có thể sống sót được chứ
còn chui trở lại xuống hầm thì kể như chết
chắc. Nghĩ đến chết tôi bỗng nhớ
tới ba mẹ và em gái tôi đang ở nhà. Không hiểu
giờ này mọi người làm gì và có ai biết là tôi
đang ở giữa đại dương giông bão và sắp
chết rồi chăng? Thấy mình sẽ chết và bỏ
lại tất cả người thân trong chốc lát nữa
đây, giữa biển cả bao la, không một nấm mồ,
không một người tiễn đưa trong giờ phút
sau cùng tự nhiên tôi thấy xót xa. Tôi không ngờ số
phận mình lại thê thảm và chuyến
đi này vô cùng bất hạnh như thế!
Nhưng tôi không suy nghĩ được lâu. Một
con sóng thật to đã dựng ngược chiếc ghe nhỏ
bé lên cao khiến tôi tụt sâu xuống bên dưới, hai
chân chạm lấy mặt biển lạnh ngắt. Cái
lạnh buốt giá như kim châm vào tim làm tôi tỉnh hẳn,
hốt hoảng tôi vội chộp lấy một thanh gỗ
được đóng ngang làm lan can kế đó, nhờ vậy
mà không lọt ra khỏi con tàu. Nhưng rồi ghe lại
rơi ầm xuống mặt nước, dập vùi trong
sóng biển khiến tôi đau cả lồng ngực.
Không biết đến bao lâu, tôi cố bò lên trên và nằm
im được một lúc thì ghe bị nghiêng sang phải
do một ngọn sóng đẩy ngang. Một bao trắng,
lớn, từ trên cao chợt tuột qua mặt tôi rơi tỏm
xuống biển. Đưa tay chộp lấy bao thứ
hai đang rớt theo, tôi giữ chặt lấy một góc
của bao theo phản xạ tự nhiên và bấy giờ mới
nhận ra đó là bao gạo. Cứ như thế một
tay tôi giữ thanh gổ tay còn lại thì nắm mãi bao gạo
vì sợ bao gạo rơi nữa và mọi người sẽ
chết vì đói! Đến khi cánh tay mỏi nhừ
thì một ý nghĩ chợt lướt ngang trong đầu
“ủa, tại sao mình phải giữ lấy bao gạo này
làm chi cho thêm cực khổ và nguy hiểm vậy? Biết
mình có sống qua khỏi cơn giông tố này chăng mà lo
chết vì đói cơ chứ? Sau khi ngộ được
cái ngu của mình tôi vội vàng buông nó ra không tiếc nuối.”
Nhìn bao gạo mất hút dưới vực nước
sâu thẳm tôi liên tưởng tới số phận của
mình và tự hỏi “không biết đã có bao nhiêu thuyền nhân chết trên biển rồi?
Nào ai biết được!” Dần dà cái lạnh
thấm vào người. Tôi hiểu mình không thể nằm
trên đây lâu hơn được nữa. Mỗi lần
gió thổi ngang là môi tôi run lập cập, tay chân bắt
đầu cóng lại. Phải xuống hầm thôi!
Nghĩ tới chuyện
xuống lại hầm và sẽ chết chìm trong ngột ngạt
tôi cảm thấy đau đớn quá mà chẳng biết
làm sao? Suy nghĩ hoài cũng không tìm được cách
nào hay hơn và chưa bao giờ tôi thấm thía câu “tấn
thối lưỡng nan” như lúc này. Thôi đành vậy!
Nằm trong khoang phó mặc số mạng cho đất trời,
nhớ tới lờì mẹ tôi dặn dò là hãy luôn nguyện
cầu khi đi biển, nhưng bây giờ dù cố moi nát
cả óc tôi vẫn không nhớ câu mẹ dạy là câu gì nên
tôi cứ gọi đại tên Đức Phật Thích Ca ra
mà niệm và tự thấy xấu hỗ với lòng mình.
Thói thường, người ta ít ai nghĩ đến
Đấng Tối Cao khi bình an hạnh phúc. Họ chỉ
tưởng nhớ tới lúc lâm nạn hay sắp mất
như tôi bây giờ mà thôi. Bám víu vào một niềm tin
tôn giáo, miệng lâm râm niệm Phật để tìm chút bình
an trong tâm hồn, tôi chìm vào cõi hư vô!
***************
Mở mắt nhìn quanh, tôi cố định thần một
hồi lâu để biết mình đang ở đâu?
Mùi hôi thối xộc vào mũi và tiếng nước
kêu lỏm bỏm khi tôi trở mình đã cho tôi biết rằng
tôi còn sống và đang nằm trong hầm ghe. Ngồi
dậy nhìn quanh, không có ai tỉnh cả. Mọi người
vẫn còn say sóng nằm la liệt chồng chéo lên nhau.
Đồ đạc vương vãi khắp nơi.
Nếu không có tiếng nước kêu bì bõm và hình ảnh
mấy trái cam quít trôi dật dờ lui tới trong góc khoang
theo mỗi cái lắc lư của con thuyền
thì không ai nghĩ có sự sống ở nơi này. Trông
cô gái nằm xa xa với gương mặt trắng nhợt,
quần áo thấm nước ướt nhẹp, tóc dài loã
xõa, bê bết dính đầy thức ăn của mọi
người ói mửa tôi cảm thấy ghê sợ và lại
buồn nôn nên vội vã leo ra bên ngoài. Uể oải, mệt
mỏi, đầu vô cùng đau nhức tôi ngồi dựa
thành ca-bin thở dốc.
Đứng trên boong* ngó quanh. Mặt biển phẳng lặng
như tấm thảm xanh ngắt và yên như tờ.
Trời trong vắt không một áng mây. Đêm qua biển
là quỷ dữ, sáng nay lại là mẹ hiền, ngọt
ngào và ấm áp làm sao! Gió thổi nhè nhẹ làm tôi tỉnh
hẳn và nhớ mọi chuyện
xảy ra trước đây. Trong ca-bin có hai người
đang nằm bất động mà sau này tôi biết đó
là chú Chín tài công và Bảo, thợ máy phụ của tàu.
Lúc đó, tôi không cảm nhận được thời
gian. Một mình với chiếc ghe trôi vô định giữa
biển cả mênh mông tôi thật sự cảm thấy cô
đơn và sự nhỏ bé của con người trước
Tạo Hoá. Cảm giác sợ hãi vì cô độc len nhẹ
vào lòng và lớn dần. Tôi cần bạn đồng
hành. Tôi cầu mong cho có người nào đó tỉnh dậy
với tôi để tôi bớt lẻ loi.
Chiều xuống dần khi nắng úa vàng, vương nhẹ
trên biển thì tôi bắt đầu đi lòng vòng trên ghe kiểm
soát mọi thứ. Xuống hầm, nhìn máy tàu như một
khối sắt vô dụng to lớn kềnh càng nằm bất
động để con thuyền
trôi lênh đênh tôi thở dài ngao ngán, chui ra. Phiá sau ghe, mọi
thứ rơi đổ ngỗn ngang. Tôi thấy có
năm bao gạo còn có thể dùng được với bảy
bao khoai lang. Nước ngọt thì còn mười mấy
can hai mươi lít với cả một thùng phuy được kiền chặt trong
khung gổ. Tôi tạm an lòng bởi chưa lo chết
vì cái đói, cái khát trước mắt.
Khá lâu sau đó, một thanh niên to cao chẳng rõ từ
đâu xuất hiện, đi loạng choạng về
nơi tôi đang ngồi trước mũi ghe. Đấu
tóc anh rối bù, áo quần xốc xếch. Anh ta là Phong
như anh tự giới thiệu. Phong nhỏ hơn
tôi mấy tuổi và cũng là người Sàigòn. Nhờ
Phong có cái đồng hồ mà tôi biết được bấy
giờ đã gần năm giờ chiều ngày thứ hai của
chúng tôi sau khi khởi hành. Có Phong tôi vui mừng, yên tâm
hơn. Cả hai đều đói nhưng không muốn
ăn gì vì miệng quá đắng và ruột thì cứ sôi
sùng sục bên trong. Lúc tôi kiếm nước uống
thì Phong chui xuống hầm máy, một lát sau nó trở lại
với gói Capstan đỏ và chiếc quẹt gas. Chỉ
một vài hơi thuốc là cả hai đứa lại vật
vờ đầu óc lâng lâng vì say thuốc.
Tối tới thì hầu như mọi người đã tỉnh,
nhưng sóng to gió gào lại nổi lên. Khoang ghe quá hôi
thúi, nhưng vẫn phải chui xuống. Ghe lại bị
nhồi dữ dội và sóng đánh mạnh vào hai bên mạn
thuyền khiến ghe vặn
mình đủ trăm kiểu, kêu rắc rắc làm tôi hoảng
sợ nghĩ rằng mình khó lòng qua khỏi đêm nay.
Rồi tôi lại chìm vào mê man của cuồng phong sóng
nộ.
Ôm bụng, tôi mửa ra chút nước vàng lẫn xanh,
đắng ngắt. Bụng quặn thắt từng
cơn. Đau buốt. Ngó quanh thấy trời
đã sáng vì ai đó đã mở nắp hầm tự lúc
nào. Cạnh tôi một thanh niên nằm sõng soài, mặt
xanh như chàm trông như nguời đã chết nếu
không thấy ngực còn phập phồng lên xuống theo nhịp
thở. Mọi người đang say sóng nằm im bất
động. Tôi mệt mỏi, rũ rượi bò lên
boong nằm thiêm thiếp. Bấy giờ thì biết thế
nào là “ói tới mật xanh!” Không khí biển trong lành buổi
ban mai làm cho đầu óc tôi tỉnh táo khoẻ được
đôi chút.
Buổi trưa, Bảo lấy đâu ra một cái nồi lớn
cùng tôi và một số anh em khác nấu cháo ăn trên một
cái lò than được quây kín bằng miếng thiếc, bởi
đã hai hôm chúng tôi chưa có chút gì vào bụng. Kinh nghiệm
ở tù, tôi chỉ ăn cầm chừng cho quen bao tử
trong khi đại đa số lại ăn cố vì
đói. Kết quả cả đám ôm bụng nôn thốc,
nôn tháo xuống biển. Nhờ có chút cháo tôi khỏe
ra. Chiều, tôi huy
động vài thanh niên nấu một nồi khoai lang dự
tính chia cho bà con dưới hầm. Khoai chín chưa kịp
chia. Họ đã vây quanh tự lúc nào, nhào vô giành giựt
làm cho kẻ có người không và suýt tí nữa là lật
ghe nếu anh em chúng tôi không kịp thời la hét, răn
đe dữ tợn. Mọi người tản ra.
Gã thanh niên gần như chết nằm kế bên tôi
ban sáng, hai tay cầm hai củ khoai vừa khuất dưới
miệng hầm làm tôi nghĩ ngợi tới tình trạng
tranh giành, hỗn loạn vì đói khát sắp xảy ra!
Hoàng hôn buông xuống trên biển rất nhanh. Tôi lại
cảm thấy hãi hùng với bóng đêm tăm tối vì ban
ngày biển yên sóng lặng thì tối tới lại trở
cơn thịnh nộ khiến ghe cứ trồi lên hụp
xuống cả đêm. Trong cơn say tôi thấy mình bị
nhận chìm xuống thật sâu của vực nước
khổng lồ đen thăm thẳm. Rồi ngày thứ
tư lại đến. Bình minh của biển thật
tráng lệ, hùng vĩ, tôi ngồi im hằng giờ ngắm
biển không biết chán và mừng vui bởi được
sống thêm một ngày nữa. Cuộc sống trong cõi
nhân sinh tạm bợ lúc này được chúng tôi tính bằng
phút giây. Thời gian chậm chạp đi qua, loanh quanh
trên tàu trò chuyện với
nhau, chúng tôi trở nên thân thiết. Ghe cứ lênh
đênh trôi dật dờ. Bến bờ tự do mù
tăm, chẳng biết biền biệt ở phương
trời nào? Nhận thấy tình trạng này có thể
kéo dài chẳng hiểu đến bao lâu vì dường
như vùng này không có ghe tàu nào qua lại. Tôi bàn bạc với
một số anh em sắp xếp lại trật tự
trên ghe để đối phó với các tồi tệ có
thể sẽ xảy đến trong những ngày tới.
Mọi người đồng tình nhưng không ai dám
đứng ra lãnh trách nhiệm. Vì sự sống còn,
tôi kêu gọi anh em đứng sau lưng khi tôi xuống hầm
giải thích với mọi người. Không ai trả
lời. Im lặng tức là đồng ý.
Trước nhất là tôi muốn biết xem ghe có bao nhiêu
người tất cả. Sau khi đếm xong thì tổng
số người trên ghe là tám mươi sáu trong đó trẻ
em tuổi từ hai tới chín là bảy với một hài
nhi mới được mười tháng và ba mươi
sáu phụ nữ cùng bốn mươi hai đàn ông thanh
niên. Chú Nho, nguyên là hạ sĩ quan quân nhạc của
Việt Nam Cộng Hòa; anh Phan, người Bắc di cư,
là xạ thủ M-79 khi xưa; chú Chín, tài công Phú Khánh và bà
Năm ở dưới khoang là các nguời lớn tuổi
nhất. Kỳ dư đám còn lại đều nhỏ,
lớn lên sau 1975. Với số người này tôi chia
thành bốn tổ với đủ mọi thành phần từ
thanh niên tới nam phụ lão ấu. Tôi phân công cứ Tổ
Một lo nấu ăn, chia nước uống hôm nay cho bà
con thì Tổ Hai trực đêm canh tàu cầu cứu…
Kế tiếp tôi cho làm tổng vệ sinh dưới ghe,
dùng nước biển rửa sạch khoang tàu để
tránh bịnh hoạn. Mở hai cửa sổ dưới
hầm cho thông thoáng và đến chừng ấy tôi mới
nhận ra ghe còn rất mới vì mùi nhựa cây còn thơm lừng.
Trên boong thì tôi yêu cầu đổ toàn bộ khoai lang ra
sàn phơi cho khô ráo để dự trử, dùng lâu ngày.
Quy định phân chia phần ăn, nước uống
cho mỗi người một ngày là bao nhiêu được
anh em chúng tôi hướng dẫn rõ ràng. Tôi kêu gọi mọi
người hạn chế dùng nước ngọt. Chỉ
ưu tiên cho những em nhỏ và người già cả hay
bệnh hoạn. Cắt, đặt, các tổ thay phiên
canh giữ nước ngọt, không cho sử dụng tuỳ
tiện nữa. Tất cả thanh niên đều vui vẻ,
đồng tình hưởng ứng chỉ trừ gã thanh
niên nằm gần tôi là cứ lầm lì không làm gì cả
ngoài đòi ăn khiến ai cũng than phiền. Gã cũng
không bao giờ đi đâu ngoài những khi cần thiết.
Hành động của gã làm tôi có cảm tưởng
dường như gã sợ mất chỗ nằm của
gã nếu gã bỏ đi vậy.
Rồi tai hoạ bắt đầu giáng xuống ghe vào sáng
ngày thứ Tám. Hôm ấy trời không có nắng, bầu
trời cứ đùn đục trông thật ảm đạm,
dưới biển sóng dợn từng cơn to lớn báo
hiệu một ngày mưa bão. Trong lúc anh em chúng tôi
đang ngồi trên mũi ghe ngóng về phía cuối trời
tìm bóng dáng một chiếc tàu cứu nạn thì thằng Na
hớt hãi chạy lên la:
- Anh T ơi, nắp nồi cơm bay rồi!
Tôi đứng bật dậy ngó ra sau, chỉ kịp nhìn thấy
cái nắp to còn là một chấm đen và chìm mất dười
lòng đại dương thật nhanh. Tức giận
vì đã bao lần dặn kỹ mọi người phải
cột nắp vào nồi mỗi khi nấu, thế mà cuối
cùng nắp vẫn bị gió cuốn tung đi, tôi nổi
cáu chửi đổng:
- Đ.m. đã nói rồi mà không nghe.
Kể từ đó chúng tôi phải dùng một cái áo Khaki thật
dày nhúng nước ướt trùm lên miệng nồi mỗi
khi nấu nhưng gạo vẫn không thể nào thành
cơm. Nhiều người đã bị tháo dạ,
đi đại tiện nhiều lần do ăn cơm
không chín, cơ thể bị mất nước và yếu hẳn
đi. Chúng tôi quyết định từ nay chỉ nấu
cháo, nhưng nấu cháo thì khó chia vì chẳng có đủ
chén cho từng ấy con người. Bởi ghe chỉ
có năm cái, đành phải ăn luân phiên vậy!
Hai giờ chiều cùng ngày, bên phải của ghe có nhiều
cụm mây đen xuất hiện ở chân trời và chỉ
thoáng chốc đã kéo tới che kín bầu trời. Mặt
biển trở nên hung ác, sóng cuồn cuộn, nhấp nhô dữ
dội. Nuớc đổi màu đen đậm tạo
những hố sâu hun hút như ngàn con qủy dữ đang
nhe nanh ngoắc mõm chực chờ nuốt lấy mọi người.
Gió to kéo giông đến và bão nổi lên. Con thuyền nghiêng ngữa trong sóng biển.
Anh em chúng tôi chui hết xuống hầm đóng nắp
lại lúc mưa bắt đầu nặng hạt. Ngồi
trong khoang tối tăm, người lắc lư theo thuyền, chúng tôi im lặng sợ hãi .
Tiếng cầu kinh, niệm Phật vang ra xung quanh mỗi
lúc một nhiều trong khi sóng đánh ầm ầm vào con
tàu càng lúc càng mạnh hơn. Tiếng em bé khóc, tiếng
nức nở của phụ nữ vì sợ hãi vang dội
làm tôi thêm lo âu là tàu sẽ có thể bị bể ra bất
cứ lúc nào.
Một chốc sau, mưa tạnh bão qua. Bầu trời
trở nên quang đãng lại. Mọi người lục
tục kéo lên boong. Vừa dợm người chui ra chợt
thấy gã thanh niên lười biếng mở mắt, tôi bắt
chuyện thì được
biết gã cũng ở Sàigòn tên Hùng hay Hưng gì đó tôi
nghe không rỏ lắm bởi giọng gã khàn đục.
Hỏi thăm công ăn việc làm của gã trước
khi đi vượt biên thì gã nói từ khi trường của
gã bị lấy tịch thu thì gã chẳng làm gi cả!
Tò mò tôi hỏi thêm trường gã làm sao mà bị lấy,
gã bảo bởi Việt Cộng cho rằng trường
gã do Tây thành lập và chỉ đào tạo bọn “phản
động” mà thôi. Tôi hỏi trường gã học là
trường gì ghê thế và giựt mình khi gã trả lời:
- Taberd!
- Tôi cũng Taberd nè!
Nói xong, tôi chăm chú ngó mặt gã xem có quen không nhưng chắc
là vì đói khát, mệt mỏi mấy hôm nay nên mặt gã hốc
hác, đôi mắt trũng sâu, thiếu thần khiến tôi
nhìn mãi vẩn không thấy quen. “Chắc không có học
chung với mình lớp nào” nghĩ vậy tôi tò mò muốn
tìm hiểu xem năm 1975 gã đang học lớp mấy thì
thay vì trả lời tôi gã lại khẩn khoản xin nước.
Tôi vội đi lấy một ít nước cho gã.
Uống xong gã nhắm mắt như chẳng muốn
nói chuyện nữa. Thấy
thế tôi bỏ đi, không quên khuyên
gã nên lên trên hít thở không khí trong lành cho khoẻ hơn là nằm
hoài một chỗ không tốt. Gã im lặng không buồn
trả lời.
Một đêm, đang ngủ dưới khoang tôi vội
phóng nhanh lên boong khi nghe la thất thanh “có tàu, có tàu” ở bên
trên. Từ xa có một chiếc tàu rực rỡ dưới
ánh đèn. Mừng quá tôi hối mọi người
đưa đồ để tôi đốt lửa cầu
cứu. Phong lượm một cái nồi bằng gang
dưới hầm máy đưa lên, kèm theo một ít dầu.
Đặt cái nồi trên nóc ca-bin; trong khi chờ đợi
Bảo kiếm nguyên liệu để đốt tôi cởi
vội cái áo đang mặc thảy vô nồi rồi bật
chiếc quẹt gas trên tay. Lửa bùng lên cao, sáng một
vùng biển. Thằng Hòa, thằng Na và một số
anh em cũng lần lượt lên boong phụ tôi chuyền áo quần của bà con từ
dưới đưa tới. Một đống tiền
từ áo quần không biết của ai bốc cháy bay ra, tua
tủa như bươm bướm khi tôi bỏ vô nồi
trông thật ngoạn mục!
Mọi người xôn xao, la ó khi tàu lạ tiến đến.
Nó dừng lại cách chúng tôi không xa lắm. Đó
là một chiếc tàu rất lớn, đèn đuốc sáng
choang. Trên boong tàu thật cao, các ông tây bà đầm
đang lăng xăng chạy tới chạy lui chỉ trỏ.
Bên này, chúng tôi mang thêm lên boong một số đàn bà trẻ
em, đồng thời vẫy tay kêu gào cầu cứu vang
trời. Chiếc tàu lạ chỉ đứng im, quan
sát một đổi, không có một hành động gì cứu
giúp. Thời gian chầm chậm trôi qua, chúng tôi hy vọng
và chờ đợi. Nhưng rồi nó từ từ di
chuyển xa dần, xa dần
và cuối cùng mất hẳn. Nỗi thất vọng
trong tôi càng lúc càng lớn khi tàu ngoại quốc nọ bỏ
đi. Chưa bao giờ tôi thấy buồn và cay đắng
như lúc ấy. Nhiều tiếng khóc thút thít, sụt
sùi của mấy cô gái bên tai lúc chiếc tàu biến mất
làm tôi thêm chán nản. Anh Phan thở dài ão não trước
tình thương của con người đã mệt mỏi:
- Đù má! Người ta chán đám vượt biên của
tụi mình rồi!
Mọi người im lặng, theo đuổi các suy nghĩ
riêng tư của mình. Đêm trả lại cho biển
cả một màu đen tăm tối.
Ngày thứ mười hai trôi qua. Ngày thứ mười
ba lại đến. Ngày thứ mười bốn cũng
như ngày vừa đi qua. Khoảng thời gian này
chúng tôi đã gặp hơn hai muơi chiếc tàu nhưng
chẳng có chiếc nào dừng lại giúp đỡ.
Suốt mười mấy ngày sống trên biển nhiều
khi tôi có cảm giác thời khắc như đọng lại.
Thế giới như thu nhỏ đi vì không gian quanh
tôi lúc đó chỉ có trời, nước, sấm chớp,
bão giông…Nếu như thỉnh thoảng không có các con cá heo
chạy đuổi theo ghe nô đùa, nhào lộn, phun nước
thì tôi ngỡ cuộc đời tôi đã đột ngột
bị bứt ra khỏi kiếp phù sinh với bao hận
thù tranh chấp hay bôn ba vât lộn cùng cuộc sống nhiều
lo toan trước đây để sống trong một cõi
khác. Giờ thì tôi có nhiều thời gian cho lòng yên lắng,
cảm nghiệm trải dài theo mặt biển mênh mông và niệm
suy cái phận mong manh của con người, cái vô thường
bao la trong cái hữu thường hạn hẹp, sự phi
lý của đời sống để nhận chân
được hình tướng của cái không trong cõi không
này. Nhưng sự bình yên trong cõi không vừa tìm thấy
ấy của tôi không tồn tại được lâu.
Nó bị quấy rối, vẫn đục lên bởi
thực tại nguy nan khi mọi ngưỡi thấy
lương thực trên ghe vơi dần. Nắng trên
biển nóng khủng khiếp, lúc này thì bọn chúng tôi đứa
nào đứa ấy đều đen thui. Người bắt
đầu gầy còm, ốm nhom.
Sáng lên chiều xuống, chúng tôi quen dần với hoàn cảnh
hiểm nguy. Đám thanh niên không còn múc nước biển
lên tắm trên tàu nữa mà nhiều khi nóng quá cả bầy
còn nhảy xuống biển nô đùa, bơi xung quanh ghe, khiến
tôi có cảm giác như là chúng tôi đang sống trong chốn
an lành vậy. Nhiều đêm, anh em tôi ngồi trước
mũi thuyền im lặng
ngắm trăng lên. Ngó trăng còn mờ mờ từ
các ngày đầu lúc mới ra đi đến khi sáng vằng
vặc rồi lại lu dần chúng tôi vẫn cố chờ
đợi một phép mầu. Đến ngày thứ
mười tám thì hết khoai lang, than cũng không còn bao
nhiêu. Mọi thứ trên ghe đều gần cạn.
Cái đói bắt đầu bò tới. Gã thanh niên
kia xem chừng kiệt sức lắm rồi.
Một hôm trong lúc ngồi trên thành ghe nhìn biển mênh mông,
trông các vệt mây trắng trôi hững hờ trên lưng trời
xanh thẳm như những dãi khăn Voan dịu dàng run nhẹ
trên bờ vai thiếu nữ, hai chân tôi buông thỏng xuống
nước và hai tay thả xuôi theo phía trước. Bỗng
nhiên tay tôi như chạm phải vật gì bên dưới.
Ngó xuống tôi thấy có vài chấm đen bám dọc
thành ghe. Đưa tay gỡ lấy một cái, dưới
ánh mặt trời tôi nhận ra đó là một sinh vật
bé như đầu đũa, dài cở một lóng tay út.
Nếu gọi đó là một loài ốc thì cũng không
đúng dù nó có lớp vỏ khá cứng vì dường
như nó cón có một cái đuôi nhỏ nữa. Tuy nhiên
gọi là cá thì cũng không hẳn, bởi cá thì không thể
sống thiếu nước được! Tôi không biết
loại sinh vật này là loại gì, chỉ mơ hồ
đoán rằng có lẽ nó sống trong đại dương
và bám vào những vật trôi nỗi như ghe tôi trong các ngày
qua cũng nên. Đập ra xem thử. Bên trong
đó có một chút thịt mà sau khi rửa bằng nước
biển xong tôi bỏ vào miệng nhai thấy có vị ngọt
tiết ra dù khá tanh. Nín thở, tôi nuốt đại
và im lặng không nói với ai vì sợ mọi người
trong cơn đói sẽ ùa sang giành giựt thì ghe sẽ lật
như chơi nhưng lòng thì khấp khởi mừng thầm
vì ít ra có mấy con này tôi sẽ không đến nỗi chết
đói!
Mấy ngày kế tiếp nước cũng chẳng còn
bao nhiêu, chúng tôi quyết định chỉ để dành uống
mà thôi nên cháo cũng không còn! Bọn thanh niên chúng tôi lúc
bấy giờ chạy lon ton trên ghe như những con còng
gió. Dưới hầm bà con nằm rũ liệt, gã
lười biếng mặt xạm ngắt luôn miệng kêu
đói. Trước tình cảnh đó mỗi bữa
tôi nhét vô miệng gã một hai con ốc (tạm gọi
như vậy) mà tôi lén gỡ trên thành tàu. Miệng gã
động đậy khi có bất cứ thứ gì bỏ
vào. Gã nằm mẹp dưới khoang, ngực thoi thóp
thở nhẹ như khói. Nhìn sang bên cạnh thấy
hai bé trai mặt mày nhợt nhạt, mắt nhắm nghiền
tôi phân vân mãi. Sau cùng, tôi âm thầm đút vào miệng
chúng mỗi đứa một con ốc. Cũng như
gã kia, môi chúng nhóp nhép như mỏ chim non được mẹ
mớm thức ăn rồi nuốt vội một cách khó
khăn. Những đứa nhỏ quá thì tôi không thể cho
được vì sợ chúng ăn đồ sống sẽ
bị tiêu chảy. Đêm hôm ấy trời đổ
mưa sau gần mười ngày nắng hạn. Mọi
người như chết đi sống lại, vui mừng
bò lên boong hay ra sàn ghe ở phía sau hứng nước
mưa uống. Tôi ngữa mặt lên trời đêm nuốt
từng giọt, cảm nhận được vị ngọt
của nước mưa thấm xuống cuống họng
và lan dần vào từng tế bào của cơ thể.
Đã khát rồi, chúng tôi lấy áo mưa căng để
hứng nước và đổ vô tất cả các thứ
gì có thể chứa được để dự trữ.
Một buổi sớm mai, anh Hải đến ngồi cạnh
tôi buồn rầu than thở trước tình cảnh hiểm
nghèo của chiếc ghe. Theo anh, ghe này không có người
tổ chức đi cùng và cũng không có thợ máy. Bảo
chỉ là một thợ máy mới ra trường chẳng
có kinh nghiệm gì cả. Anh nói mấy hôm nay anh quan sát
thấy dưới máy tàu có một con ốc; có lẽ bị
gãy bởi đêm bão khiến tàu hỏng máy chứ không phải
vì “dầu phun giọt chứ không còn phun sương” làm máy
không nổ được như Bảo thường giải
thích với mọi người. Anh tỏ ý muốn sữa
chữa nhưng anh lưỡng lự không dám ra mặt.
Anh sợ rủi có bề gì người ta lại quy
trách nhiệm cho anh là thợ máy thì khổ thân anh. Anh muốn
tôi giải thích điều đó với bà con trên ghe trước
khi anh bắt tay vào việc. Đến chừng đó
tôi mới hiểu hết mọi chuyện
trên chiếc ghe bất hạnh này, bụng bảo dạ “ồ,
thì ra là thế. Hèn nào mà đêm đầu tiên lúc ghe ra
khơi mình bò lên boong mà chẳng ai ngăn cản!” Tôi
vui mừng khi nghe anh nói anh cũng biết một tí về
máy móc. Điều đó nào có khó gì với tôi lúc này.
Hy vọng dù mong manh nhưng dẫu sao thì cũng còn
hơn là tuyệt vọng!
Việc đầu tiên là tìm một thanh gỗ dài để
làm đòn bẫy nâng máy lên. Kế tới là thuyết phục chị Sang đồng
ý cho con chị, bé Hồng, thò tay vô lượm con ốc khi
máy được bẫy lên. Đây là chuyện chẳng dễ dàng vì chị
không muốn mạo hiễm quá cho con bé. Nhưng ngoài bé
Hồng thì không ai có bàn tay nhỏ hơn vì chúng tôi không thể
nâng cái máy tàu cực nặng đó lên cao hơn được
trong hoàn cảnh thiếu phương tiện như thế
này.
Tuy nhiên, sau cùng thì vì sinh mạng của mọi người
trên ghe, chị cũng đồng ý không quên căn dặn
đừng làm tổn thương cháu. Thế là chúng
tôi bắt đầu tháo một thanh ngang khá dài của ghe
dùng làm đòn bẫy. Công việc này nặng nhọc,
đầy khó khăn vì phải làm trên sóng nước gập
gềnh rất nguy hiễm, đòi hỏi tất cả khi
làm phải hết sức chú tâm và tận lực. Khi
chuẩn bị bẫy máy lên chúng tôi phải dồn bớt
người sang bên kia lườn ghe để cân bằng
con thuyền vì nếu chểnh
mảng, không tính toán cẩn thận, ghe sẽ bị lật
ngay. Một số thanh niên được huy động tới giúp anh Hải.
Ai cũng hồi họp và căng thẳng. Mọi
chuyện cuối cùng đều
êm xuôi tốt đẹp nhờ ai cũng có tinh thần
trách nhiệm. Tất cả đều thở phào nhẹ
nhỏm. Trong khi bọn tôi gắn lại thanh ngang thì
anh Hải lò dò từ đầu ghe đến cuối mũi
để tìm con ốc tương tợ cùng kích cở.
May mắn cho chúng tôi, ghe có hai con ốc như thế
để anh Hải tháo lấy một cái lắp vào máy.
Sau một ngày hì hục vật lộn với khối
sắt to lớn, đến khoảng bốn giời chiều
anh Hải thử “đề” máy.
- Bạch! Bạch! Bạch…..Đùng,
Đùng…Đùng…Đùng!
Tiếng máy nổ phá tan bầu không khí yên lặng như tờ
bao ngày qua. Con tàu đang dật dờ, bỗng trở
mũi chạy thẳng về phiá trước như ngựa
bị giựt cương chồm lên. Chú Chín vội vã
nhảy vô ca-bin chộp cần lái. Mọi người
reo hò mừng rỡ ôm chầm lấy nhau hét vang. Chú Nho
lúp xúp chạy ra trước mũi ghe quỳ xuống xì xụp
vái tạ trời đất khắp bốn phương
tám hướng. Tuy nhiên ghe chạy rất chậm dù
chú Chín thử lên ga mấy lần. Chú cho biết con ốc
thay không đúng loại “original” của máy, mà thôi dù sao thì
tàu chạy thì cũng đỡ hơn trôi! Thế là
phước đức lắm rồi.
Nhưng sự vui mừng của chúng tôi kéo dài không
được bao lâu bởi máy lại tắt, ghe lại lặng
lờ như trước. Sau khi xuống hầm máy xem
xét anh Hải cho biết con ốc vừa thay lại bị
gãy và rơi đúng y chỗ cũ. Mọi người
buồn thiu, kẻ nằm người ngồi, xoãi dài trên
boong. Thôi đành chờ ngày mai thay tiếp con ốc cuối
cùng vậy. Đằng kia, thằng Hiền đứng
trên thành ghe tiểu mãi vẫn không được vì tàu cứ
nhấp nhô trên sóng. Bỗng dưng nó la lớn “ơ,
hình như là có cái cây gì trên biển kìa anh em ơi. Chắc
mình sắp tới đảo rồi.” Cả đám
đứng bật dậy trông theo hướng chỉ tay của
nó và thấy có ba cái cây đen nhỏ như chiếc đũa
nhô cao khỏi mặt biển. Anh Phan thì leo hẳn lên
nóc ca-bin để nhìn cho rõ. Sau một hồi chăm
chú quan sát anh quát lớn:
- Đù má, cá mập.
Lời anh như sét đánh ngang tai. Không ai bảo ai, tất
cả lớn nhỏ vội vàng phóng ào ào xuống khoang
đóng nắp hầm lại. Mọi người nín
thở, mặt xanh lét nhìn nhau không dám nói tiếng nào.
Khoảng mười lăm phút sau không thấy động
tịnh gì, Phong kêu mở cửa sổ dưới khoang
nhìn ra ngoài xem sao. Lúc cửa sổ vừa được
hạ xuống tôi giật mình vì thấy hai con cá mập thật
lớn đang lội sát thân tàu. Thằng Bảo hết
hồn kéo vội cửa sổ lên. Anh Phan thì thào bên tai
tôi:
- Đù má, cá mập trắng. Hung thần của
biển cả!
- A, ở đây một con nữa!
Bên kia thằng Na cũng vừa đóng cửa sổ lại
vừa nói lớn.
- Suỵt! Địt mẹ la lớn nó nghe tiếng
động đâm cho vỡ tàu bây giờ.
Anh Phan gắt nho nhỏ. Thằng nhóc vội im bặt.
Chờ thật lâu, không thấy gì xãy ra chúng tôi lại
mở hé cửa sổ ra xem. Chẳng còn con cá mập
nào nữa cả! Mọi người thở phào
như để trút nỗi kinh hoàng. Thì ra, theo lời
anh Phan, ba cái cây mà chúng tôi thấy nhô lên khỏi măt
nước như ba chiếc đũa ấy chính là ba cái
vi trên lưng cá!
Chợt gã Taberd nằm cạnh hé mắt thều thào nhìn tôi
xin ăn. Còn đang sợ hãi, tôi bực bội, nỗi cáu
gắt:
- Đ. m. tối ngày đòi ăn hoài vậy!
Gã nín bặt một hồi đoạn cất cánh tay yếu
ớt kéo áo tôi. Nhận thấy gã dường như
có điều gì muốn nói tôi nghiêng người kê tai sát miệng
gã. Môi gã mấp máy:
- Taberd… ra… khơi…!
Tôi giật bắn người. Đích thị gã là dân
Taberd rồi. Vì chỉ có học trò Taberd mới biết
điều đó; bởi đó là tên gọi một cuốn
kỷ yếu của trường mà đến gần cuối
năm học thì học sinh nào cũng đươc phát một
quyển, nhưng lúc ấy tôi không nhớ cuốn kỷ yếu
“Taberd ra khơi” là của năm nào. Tôi muốn hỏi
thêm nhưng gã đã thiếp đi. Đám đàn ông chậm
chạp trèo lên khỏi khoang. Rồi ngày chuẩn bị
đi ngủ. Mặt trời rực đỏ như
quả cầu lửa ở chân trời, nhuộm vàng cả
một vùng biển. Mặt nước lấp lánh ánh bạc
như đàn cá đang vẫy vùng. Chẳng mấy chốc
đại dương nuốt mất quả cầu, không
gian đen tối bao trùm .
Gió thổi từng cơn mang theo hơi nước lành lạnh.
Sóng vỗ rì rầm muôn đời không thay đổi.
Hôm sau bọn tôi lại tiếp tục trở lại những
gì đã làm như hôm qua. Suốt ngày lui cui phụ anh Hải
trong hầm máy tôi quên hẳn gã lười biếng cho tới
khi nghe có tiếng lao xao nhốn nháo ở trước khoang
“chết rồi, chết rồi.” Linh tính có điều
không lành tôi chui ra và ngỡ ngàng một đỗi lâu khi hay
tin “gã Taberd” đã chết. Gã chết tự lúc nào không
ai hay. Có thể gã chết tối hôm qua, tôi đoán, vì
người gã giờ đã cứng đơ. Gã âm thầm
giã từ cõi tạm này một cách lặng yên. Những
người nằm gần lúc này hốt hoảng tháo lui, bỏ
gã nằm trơ trọi, thênh thang phía trước. Tôi
bùi ngùi bước đến gần. Gã ra đi không
thân nhân chẳng bạn bè, cô đơn, lạnh lẽo trên
biển cả mênh mông, giữa gió giông, bão tố. Nhìn
gương mặt ốm o với đôi gò má nhô cao, thân
hình xẹp lép, mỏng dính nằm ép sát đáy ghe của gã,
tôi nghe ngực đau nhói. Gia đình của gã nếu
hay tin này ắt hẳn sẽ buồn và đau khổ lắm.
Tự nhiên tôi muốn biết thêm về gã nên bước
tới lục tìm xem gã có giấy tờ tùy thân gì không?
Mò trên móc dưới, lật lên úp xuống, rà soát từ
gấu quần cho đến lai áo mà chẳng có được
manh mối gì tôi thở dài đứng dậy. Giờ
thì gã đã thanh thản ra đi, bỏ lại sau lưng mọi
hệ lụy vui buồn của kiếp phù du mà không còn âu
lo đói khát hoặc chết chìm hay làm mồi cho cá nữa
rồi. Đưa xác gã lên boong. Mọi người
lặng thinh, bầu không khí u ám, chết chóc, ngột ngạt
trên ghe. Chỉ đến khi đó thiên hạ mới sực
tỉnh, nhận thức rõ số phận thê lương của
mình trong các ngày tới. Chúng tôi trở lại công việc
dang dở với một tâm trạng hoang mang. Anh Hải
lầm lì suốt buổi, thằng Bảo thôi cười
đùa như mấy ngày qua. Thần Chết đang thì
thầm quanh chỗ này.
Chiều hôm đó, chú Nho lại lâm râm khấn vái trước
khi anh Hải đề máy. Trong ca-bin, chú Chín cầm cần
lái chờ đợi. Con tàu rẽ sóng đi nhè nhẹ
lúc máy nổ. Ai cũng vui nhưng không dám mừng rở
quá như hôm trước. Chúng tôi cột một cái bình
nhựa không vào sợi dây dài độ mười thước
tây thả xuống biển và xem đồng hồ để
tính vận tốc của ghe. Khi sợi dây vừa
đủ căng chúng tôi lôi cái bình lên. Nhìn kim đồng
hồ và nhẫm tính như vậy con tàu của chúng tôi chỉ
chạy với tốc độ năm hải lý (mile) một
giờ mà thôi. Tối đến, chúng tôi quyết định
“thủy táng gã Taberd.” Tôi bỏ ra mũi thuyền ngồi trong im lặng não nề
để khỏi chứng kiến cảnh đau lòng sau
khi bọn tôi vây quanh đọc kinh, cầu nguyện cho
hương hồn gã sớm được siêu thoát.
Phong và anh Phan thả xác gã xuống biển. Chúng
tôi mượn bóng đêm để làm như tránh một tội
lỗi. Một điều lạ lùng không giải thích
được là cho tới sáng hôm sau xác gã vẫn nổi
và trôi lềnh bềnh theo ghe chứ không chìm vào đại
dương bao la. Nhiều lời bàn tán, nhiều sợ
hãi lộ ra trên mặt mọi người. Anh em chúng
tôi kéo nhau ra sau ghe, đứng trên sàn mọi người
van vái gã phù hộ cho chúng tôi được bình an, may mắn….
Khi nắng lên quá đỉnh đầu thì thân xác gã chợt
biến mất tự lúc nào không ai hay!
Cứ thế ghe tôi chạy thêm hai ngày hai đêm nữa.
Lúc này tất cả đều đói lã, nằm la liệt.
Trên ghe không còn gì để ăn. Mấy con ốc
bên hông thuyền tôi cũng
đã cạy ăn sạch và hình như lúc ghe chạy thì
không có thêm con nào bám vào được nữa. Dưới
hầm, thằng Phước đang xé cái áo nhai trong cơn
hoảng loạn của cái đói hành hạ. Thùng phuy đựng nước hôm nay đã
rỉ sét khiến tí nước còn lại trong đó trở
nên đỏ ói, tuy vậy vẫn có kẻ múc uống để
rồi tiêu chảy nằm gục trong góc hầm. Bấy
giờ mỗi khi đi trên boong tôi phải men theo ca-bin hay
bò lom khom vịn vào thân tàu cho gió khỏi thổi bay vì
người lúc nào cũng liêu xiêu chực ngã. Da thịt
bắt đầu bị dộp nắng phồng lên và lột
khắp người.
Ngày hôm sau nữa, bất ngờ ghe tôi gặp bốn chiếc
tàu đánh cá của Thái Lan. Tàu Thái thì to, có hai tầng với
giàn cào thật mạnh. Tất cả đều chết
điếng trước viễn ảnh của nạn hải
tặc khi thấy lố nhố đám đông đàn ông
đen đúa, mình trần trùng trục trên ghe của họ.
Bọn đàn bà con gái bên ghe tôi tức thì khóc thét lên hay
co rúm người lại càng làm chúng tôi thêm bối rối.
Có cô lại hấp tấp lôi vật gì từ trong áo ra thoa
lên mặt, chỉ ít phút sau trông cô dơ dáy như “cô bé Lọ
Lem!” Nhưng có lẽ ghe tôi được ông bà độ
nên họ chẳng những đã không cướp mà còn cho
lương thực, nước uống, thuốc lá, bánh kẹo
và định cả điểm đứng của ghe,
để chỉ đường cho đi nữa!
Họ ngạc nhiên khi nghe nói ghe tôi đụng bão hôm ra
đi mà không chìm. Đó là một điều kỳ diệu
mà Trời Phật đã phù hộ cho chúng tôi vì cơn bão
đó là cơn bão Cấp Mười Hai như Việt Nam vẫn
thường gọi. Bây giờ, cũng theo lời họ,
thì ghe chúng tôi sắp tới hải phận Mã Lai và nếu
đi với tốc độ này dưới sự hướng
dẫn của họ thì chúng tôi sẽ đến Mã Lai vào
ngày mai. Bà con trên ghe vui mừng khi nghe thế và chấp
tay vái tạ từ giã sau khi họ từ chối kéo chúng
tôi tới đó. Bên kia họ cũng đáp lễ
đúng tinh thần của người Phật tử chứ
không có một biểu lộ gì hung ác. Quả là một
phép lạ! Tôi còn nhớ rõ đó là chiều ngày thứ
hai mươi lăm trên biển của chúng tôi. Như
mảnh đất khô cằn giữa cơn nắng hạn,
tám mươi lăm người còn lại ngốn ngáo
ăn hết các thứ mà tàu Thái cho. Phải công nhận
là thuốc lá Thái Lan rất nặng. Đám thanh niên ho sặc
sụa khi hút thứ thuốc này!
Nhưng “phước bất trùng lai!” Khoảng ba giờ
chiều ngày thứ hai mươi sáu trong khi ghe đang chạy
cà rịch cà tang thì bỗng dưng một cột nước
khổng lồ từ trên không đổ ập xuống
người chúng tôi dù trời đang nắng chói chang.
Còn đang ngỡ ngàng chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì chúng tôi lại
nghe:
- Cắc…Uỳnh! Cắc …Uỳnh!!!
Anh Phan trợn tròn mắt giây lâu rồi la:
- Địt mẹ, M-79!
Lời anh vừa dứt chúng tôi thấy có ba chiếc tàu gỗ,
to, đang từ xa chạy ào ào về hướng
chúng tôi. Hóa ra là bọn người bên kia dùng súng bắn
xuống nước để chặn đầu ghe tôi.
Như hôm gặp cá mập, không ai bảo ai chúng tôi vội
vàng chui xuống khoang và đóng nắp hầm lại.
Thằng Phong xuống ở phía sau chưa kịp
đã bị đạp ngã chúi vào các người ở
dưới, kèm theo những tiếng quát tháo:
- Đ. m. chúng mày ở yên dưới đó nha. Thằng
nào ló đầu lên tao bắn nát “gáo” đó!
- Đù mẹ, Việt Nam! Mình bị mấy thằng
Thái Lan lừa rồi.
Anh Phan kinh hãi nói nhỏ vào tai tôi. Nghe tới Việt
Nam tôi điếng người sửng sốt và không hiểu
tại sao? Tiếng nạt nộ, tiếng chân người
chạy rầm rập trên boong làm náo động không gian.
Rồi sau đó toàn bộ đàn ông thanh niên bị lùa
lên trên và bị trói lại. Lúc này tôi mới có dịp
trông rõ những kẻ đã bắt chúng tôi. Sang thuyền chúng tôi gồm tám người,
khá trẻ, khoảng trên dưới ba mươi tuổi,
chỉ có một lão già mà chúng gọi là “bác Ba” chắc là
trưởng toán thì cỡ năm mươi. Trên ba ghe
của chúng còn lại bảy người, vị chi chúng có
khoảng mười lăm người tất cả.
Tên nào trên tay cũng lăm lăm khẩu
M-16. Một tên trong bọn họ leo xuống hầm
máy tháo sợi dây cu-roa của máy tàu chúng tôi mang về
tàu chúng xong đoạn cột ghe của chúng tôi vào tàu của
chúng lôi đi. Bấy giờ chúng mới cho biết
đây là hải phận Mã Lai và chúng là “Đội Lưới
Hoàng Khơi của Tỉnh X. Nhiệm vụ của
đội này là vừa đánh bắt cá vừa có nhiệm
vụ bảo vệ lãnh hải của Việt Nam!”
Tới chừng đó, mọi người đã hiểu rõ
nguồn cơn. Ngồi kế tôi, anh Phan thì thào:
- Ơ, đù mẹ. Bảo vệ lãnh hải của
mình mà sao lại xâm phạm hải phận của người
ta?
Tối đến, chúng mang cơm và “canh chua cá mập ” qua
cho bọn tôi và chỉ một vùng những đèn đóm
sáng loáng, rực rỡ như cái tháp xuất hiện từ
xa, bảo “đó, giàn khoan Tây Đức đó. Ghe mấy
ông chỉ còn cách nó chừng ba giờ đồng hồ nữa
thôi!” Tiết lộ này làm đám người trên ghe tôi
buồn bã và tiếc nuối ngẩn ngơ. Nhưng
cái đói lại réo gọi. Mấy chục ngày thiếu
cơm nên nay vừa thấy cơm là mắt ai cũng sáng
lên và chỉ thoáng chốc mọi người đã ăn sạch.
Có thể nói bữa cơm đó là một trong các bữa
cơm ngon nhất trong đời tôi tính cho đến hôm
nay.
Thế là sau hai mươi sáu ngày lênh đênh, trăng tàn rồi
lại sáng, gặp hơn bốn mươi tàu ngoại quốc
nhưng đều bị làm ngơ thì cuối cùng chúng tôi
đã bị bắt lại. Giờ thì đám này kéo
chúng tôi trở về theo chúng nó. Hôm sau bà con trên ghe tôi
quyết định gom hết vòng vàng đưa chúng để
xin chúng tha cho. Tôi đại diện đến gặp
“bác Ba” khi ông qua ghe chúng tôi, với chiếc nón đựng
đầy nữ trang. Nhận xong tổng số khoảng
năm lượng chín thì hắn lập biên bản bắt
tôi với tội hối lộ cán bộ và mang tôi sang tàu hắn
nhốt xuống hầm cá suốt trọn buổi chiều.
Sau này nghe phong phanh từ mấy tên thuỷ thủ là
“bác Ba” chê ít chứ chẳng phải chúng tốt lành gì!
Trên đường trở lại Việt Nam, ban ngày chúng
tháo dây, neo ghe chúng tôi giữa đại dương rồi
đi đánh cá quanh đó nhưng vẫn giám sát chặt chẽ
. Tối về chúng cột ghe chúng tôi vào lại tàu bọn
chúng. Một buổi trưa trời mưa bão, giông tố
nỗi dậy. Chúng tôi leo lên nhổ neo, thả cho tàu
trôi theo gió. Hành động này của anh em tôi không qua mắt
được chúng. Bọn chúng tức tốc cho tàu
chạy trở về và xông xuống khoang lôi những đứa
nào đầu ướt lên đánh một trận rồi
nhốt qua hầm cá suốt đêm. Một ngày kia khi về
gần tới Côn Sơn thì có một chiếc tàu hàng trắng
thật lớn, trở mũi về hướng chúng tôi
lúc chạy ngang vì chắc là họ thấy chúng tôi bị bắt
nên tính đến cứu giúp. Thấy vậy bọn
tôi mừng quá liền cởi áo trắng vẫy gọi mà
chẳng còn sợ gì nữa bởi mọi người biết
rằng dù muốn hay không thì cũng sắp ở tù đến
nơi rồi. Khi tàu đến khá gần thì bọn
Lưới Hoàng Khơi mang súng mà anh Phan bảo là đại
liên M-60 ra đặt trên thành ghe bắn cảnh cáo dữ dội.
Tàu kia thấy thế ngừng lại và vội vã bỏ
đi. Cơ hội cuối cùng của chúng tôi vuột
mất!
Chúng tôi được giải về trại giam của tỉnh
vào nửa đêm sau bảy ngày bị bắt trên biển.
Rồi hơn ba giờ đồng hồ làm thủ
tục nhập trại xong chúng tôi bị nhốt vào trong
các phòng riêng rẽ. Nhìn những gương mặt lạnh
lùng không tình người của đám công an tôi thấy nó
phủ phàng như cái chế độ mà tôi muốn bỏ
đi. Mỏi mệt, buồn bã, chán nãn, không ai nói tiếng
nào, mọi người lăn ra ngủ vùi chấm dứt
hải trình ba mươi ba ngày đói khát. Xế chiều
hôm sau lúc ánh nắng nhạt nhòa dưới chân tường,
tôi bị gọi đi lấy cung mà người cứ lâng
lâng như say rượu. Thì ra tôi không bị say sóng
nhưng lại say đất bởi mọi thứ từ
nhà cửa đến bàn ghế đều quay cuồng,
nghiêng ngã, chao đảo như muốn đổ nhào.
Trên đường đi tôi thấy tên công an đang dẫn
anh Hải về buồng giam. Lợi dụng lúc tên
công an không để ý, anh lén lắc đầu khi thoáng thấy
tôi. Trông anh thật u sầu, ão não. Tại phòng xét
hỏi tôi bị kết tội hối lội và đốt
tiền của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Biết đã bị các người trên ghe khai báo
tôi bình thản không chối cãi. Rồi tên công an bắt
đầu xoay quanh chuyện
chúng tôi được Thái Lan giúp đỡ rất nhiều,
mục đích là muốn tìm hiểu xem có phải thật sự
là chúng tôi vượt biên hay từ hải ngoại xâm nhập
về? Sau cùng hắn mới hỏi tới các người
tổ chức vượt biên. Cho rằng tôi ngoan cố
cứng đầu, gã công an điều tra nỗi dóa khi tôi
một mực bảo mình chỉ là khách. Hắn bỏ
ra ngoài. Không lâu sau đó gã trở lại với ba tên
khác. Chúng chia nhau đứng tứ trụ quanh phòng.
Biết việc gì sắp xảy đến với
mình, tôi xuống tấn chịu đựng. Vào thời
điểm này vượt biên chỉ còn được xem
là tội hình sự và những ai phạm tội này chỉ
bị phạt vi cảnh rồi được thả ra
sau một hay hai tháng nhưng riêng tôi thì lại bị giam
thêm mấy tháng bởi các tội trạng kể trên.
Lắm hôm trong bóng tối tù mù của căn biệt giam chật
hẹp, tôi thắc mắc tự hỏi lấy lòng “ngạn
ngữ Pháp có câu ‘vouloir c’est pouvoir’ (muốn là được)
nhưng sao tôi bất hạnh quá muốn hoài mà không
được cơ chứ?” Thời gian này là khoảng
thời gian nặng nề nhất đối với tôi.
Vì ngoài những trận đòn, đói khát ra thì cái chết
của gã Taberd trên ghe luôn ám ảnh lấy tôi. Nhiều
đêm khuya trong sự tỉnh
mịch của trại tù, tôi suy nghĩ “nếu mà ngày
đó tôi cho gã một, hai con ốc thì có thể gã không chết.”
Giờ đây niềm ăn năn, hối hận ray rứt
mãi trong tôi…!
…Tiếng kêu oang oác của đàn sếu bay trở lại
Bắc Mỹ trên trời cao báo hiệu đông qua xuân tới
đã lôi tôi ra khỏi vùng trời quá khứ của ký ức
hơn hai mươi năm về trước. Nhìn
đàn thiên di trở về nơi “đất lành chim đậu”
tôi bỗng liên tưởng tới Thuyền
Nhân Việt Nam, không hiểu quê nhà Xuân Tự Do Dân Chủ tới
chưa mà đã có một số kẻ sớm quay về?
Buồn…!
Triều Phong
Dayton, Ohio
Ngày 23 tháng 03 năm 2011
Trích từ truyện dài “Những dòng sông quên lãng” của
cùng tác giả.
|