THIÊN-ĐÀNG
LÀ G̀? THIÊN-ĐÀNG Ở
ĐÂU? LÀM SAO ĐI ĐẾN ĐÓ? Những câu hỏi của tựa
bài viết này chính là đề mục của một
chương-tŕnh 20/20: “What is Heaven? Where is it? How do we get
there?” do Barbara Walters thực-hiện, đă được
phát sóng ngày 6, tháng 7, 2012 trên truyền h́nh
“abc” Hoa-Kỳ. Bà
là một phóng-viên kỳ-cựu trong giới truyền-thông
từ năm 1961 cho đến nay. Sinh ngày 25, tháng 9, 1929
cả Bố và Mẹ đều là người Do-Thái
(Jewish). Trong chương-tŕnh nói trên, Barbara đă phỏng-vấn
một số các vị lănh-đạo tinh-thần của mọi
tôn-giáo: Do-Thái-Giáo, Bà-La-Môn, Hồi-Giáo, Tin-Lành, Thiên-Chúa-Giáo,
Phật-Giáo… cho đến những tù-nhân khủng bố
trong các trại giam (những tín-đồ cuồng đạo
tin-tưởng rằng chết đi bằng cách ôm bom tự
sát th́ sẽ được lên Thiên-Đàng. Chúng mù-quáng không biết
rằng giết người là trọng tội nên ngày nay phải
bị chung thân trong lao-lư ngục-tù). Bà cũng cho khán-giả thấy h́nh-ảnh ứng-cử-viên
đảng Cộng-Ḥa, ông Willard Mitt Romney, một đại-thương-gia
Hoa-Kỳ , sanh ngày 12, tháng 3, 1947; đă nói với mọi
người trong một buổi vận-động tranh-cử
Tổng-Thống rằng ông theo và tin vào đạo
Mormon. Qua lời của một
mục sư mà Barbara nói chuyện th́ người theo đạo Mormon hoàn-toàn quyết-đoán rằng
khi chết đi tất-cả họ sẽ được
trở về nhà Đức Chúa Cha trên Trời: đó chính
là Thiên-Đàng. Ngoài ra, Barbara cũng phỏng-vấn
các khoa-học-gia, nhà tâm-lư cho đến những bệnh-nhân
đă từng có kinh-nghiệm chết đi (trong ṿng 4 phút)
rồi được sống lại; xem họ có thấy
Thiên-Đàng trong khoảng-khắc “Chết” đó hay không? Phần
lớn ai cũng xác quyết rằng họ được
gặp lại Ông-Bà, Cha Mẹ… Những
người thân trong gịng họ đă quá văng. Một số ca khúc cũng như trích đoạn
phim được tŕnh chiếu xen kẽ trong buổi phỏng-vấn
nói về Thiên-Đàng như: “Ghost” do Demi
Moore và Patrick Swayze thủ vai chính.
Hoặc “Bruce Almighty” với tài-tử Jim
Carrey trong vai người tường-tŕnh về thời-tiết
trên truyền-h́nh địa-phương và Morgan Freeman trong
vai Thiên-Chúa (God), một cuốn phim hài hước nhưng
rất ư-nghĩa mà chúng tôi đă vô cùng yêu thích khi xem. Có hai nhân-vật nổi bật trong
chương-tŕnh 20/20 của Barbara Walters, xin được
đề cập đến trong bài viết này: *Người thứ nhất: là ông Joel Scott Osteen,
sinh ngày 5 tháng 3, 1963 - một mục-sư rất nổi tiếng
của Hội-Thánh Lakewood, vùng Houston, Texas; có giờ phát h́nh trên 100 quốc-gia
khắp nơi toàn thế-giới.
Barbara đă cho khán-giả biết tổ-chức của
mục-sư trẻ này cùng phu-nhân là bà Victoria Osteen (cũng
là ca-sĩ chính trong các chương-tŕnh giảng-đạo
của Hội-Thánh) thâu về được trung-b́nh khoảng
17 triệu đô (US) hằng năm nhờ vào tiền quyên
góp của các tín-đồ. Barbara cũng đặt thẳng những câu hỏi
như: “Thiên-Chúa có muốn ai ai chúng ta cũng thật giàu có
như ông-bà mục-sư không?”
Hoặc: “Theo như lời ông giảng th́ chỉ có những
ai tin Chúa, vô đạo của ông mới vào được
cổng Thiên-Đàng, thế c̣n những người theo các tôn-giáo khác th́ sao? Chẳng lẽ họ
bị sa hỏa-ngục hết chỉ v́ không tin Chúa?”… Mục-sư Osteen trả lời ngay: “Tôi không phải
là Thiên-Chúa nên không có quyền phán xét bất cứ một
ai; ngay cả những người theo
các tôn-giáo khác. Nhiệm-vụ
của tôi là phải rao giảng về niềm tin đối
với Thiên-Chúa, chỉ có Chúa mới có thẩm-quyền ban
cho con người những ǵ họ cần cũng như
Chúa có quyền năng cho họ vào được
Thiên-Đàng hay không!” Chúng tôi phải lấy làm khâm-phục về sự
trả-lời vô cùng khôn-khéo của mục-sư Osteen với
những câu hỏi “hóc-búa” mà Barbara Walters
đă đặt ra. *Vị thứ hai: chính là
đức Đạt-Lai-Lạt-Ma. Theo Tự-Điển
Bách-Khoa-Toàn-Thư th́: Đạt-Lại-Lạt-ma hay Đạt-Lai
Lạt-Ma hoặc Đa-Lai-La-Ma là danh-hiệu một nhà
lănh-đạo tinh-thần của Phật-Giáo Tây-Tạng
được vua Mông Cổ Altan Khan phong cho
phương-trượng của trường phái Cách-Lỗ
(hay Hoàng giáo) vào năm 1578. Ngài được xem là hiện
thân ḷng từ-bi của Chư Phật và Bồ-Tát;
được tái sinh trở lại kiếp người
để cứu giúp chúng sanh.
Danh-hiệu Đạt-Lai Lạt-Ma cũng được
hiểu là Hộ-Tín, tức là "Người bảo vệ
đức tin". Huệ-Hải:
"Biển lớn của trí-tuệ". Pháp-Vương: "Vua của
Chánh-Pháp". Như-Ư-Châu:
"Viên bảo châu như ư".
(ngưng trích) Ngài được trao giải
Nobel Ḥa-B́nh năm 1989, đồng thời là người
đại diện Phật-Giáo xuất-sắc hiện nay
trên thế-giới. Các tác-phẩm ngài viết được
rất nhiều người đọc, nhất là ở
các nước Tây phương (trong đó có chúng tôi). Xin ghi lại đây chi-tiết
phần phỏng vấn của Barbara Walters với đức
Đạt-Lai-Lạt-Ma về hai chữ “Thiên-Đàng”; phần
lớn dựa theo cách chuyển dịch qua tiếng Việt
của tác-giả Tuệ-Uyển.
(Ghi-chú: phần chữ nghiêng là câu hỏi và trả-lời,
phần chữ thẳng là Barbara nói chuyện với khán-giả). Barbara mở lời chào khi
đến gặp Đức Đa-Lai-Lạt-Ma: - Xin cảm ơn Đức
Thánh Thiện, đă cho phép tôi đến thăm viếng
nơi này. Đức: Đạt Lai Lạt
Ma là một lănh tụ được nhiều người
quư mến, ngài rất vui tính và đặc biệt. Ngài
được xem là vị hóa thân thứ 14 của Đức
Phật từ bi và tuệ trí. Hàng triệu người tin
tưởng đức Đạt Lai Lạt Ma là một vị
Phật Sống. - Với một ḷng tôn kính sâu
xa, thưa Đức Thánh Thiện, tôi muốn hỏi rằng,
ngài có phải là một vị Thần Thánh không? (Are you a God?) - Không! (Đức Đa-Lai-Lạt-Ma cười
& trả lời) - Không? (Barbara lập lại) - Hôm nay là một ngày mà đôi mắt tôi (ngài lấy
kính ra) hơi nhức nhối. (cười)
Nếu tôi là một vị Thần Thánh th́ mắt tôi đă
không khó chịu như thế này! (cười) - Nếu Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma không phải
là một vị Thần Thánh. Vậy xin cho biết ngài là
ǵ? Có phải ngài là một vị thầy? - Đúng vậy, tôi nghĩ
ḿnh là một vị thầy. Đức: Đạt Lai Lạt
Ma bây giờ đă 77 tuổi, mỗi năm chủ tŕ hai tuần
lễ giảng dạy Phật Pháp. Hàng trăm khách hành
hương cùng với những tu-sĩ Tây-Tạng đă lắng
nghe lời dạy được diễn dịch qua nhiều
ngôn ngữ của ngài, có khi kéo dài cả ngày. Đức Đạt Lai Lạt
Ma là một học giả thông-thái nổi tiếng. Phật Giáo không tin vào Thượng-Đế
theo cách của người Ki-Tô-Giáo nhưng tin là có những
cơi Thiên-Đàng. - Thiên-Đàng ở đâu
thưa ngài? - Kinh điển Đạo
Phật diễn tả, ở trong mười phương,
đông, tây, nam, bắc, trên, dưới ... Những sách vở
cổ truyền của Tây Tạng diễn tả 6 loại
địa ngục và 6 loại Thiên-Đàng. - Đức Thánh Thiện, xin
ngài diễn tả quan điểm của đạo Phật
về Thiên-Đàng. - Rất hạnh phúc, rất vui
sướng. Nơi tốt nhất để phát triển
tâm linh xa hơn. Đây là chỗ mà Ki-Tô-Giáo và
Phật-Giáo không đồng ư với nhau. Đức Đa-Lai-Lạt-Ma
nói tiếp: - Đối với người
Phật tử, mục tiêu sau cùng không phải là chỉ
đến đấy [rồi thôi] nhưng mà để
thành Phật,... - Vậy th́ Thiên-Đàng không
phải là một nơi thường trụ, mà giống
như là một nơi chờ đợi (waiting place). Không phải là
nơi cuối cùng của nó (not the end of itself) phải không
thưa ngài? - Vâng. Đạo
Phật tin rằng sau khi chúng ta chết, chúng ta sẽ tái
sinh hết lần này đến lần khác, sẽ sống
trong nhiều kiếp sống. - Có nghĩa là cách sống con người càng tốt
trên trái đất trong kiếp này th́ kiếp sống tới
sẽ càng tốt hơn? - Đúng thế! - Và cách sống xấu-xa – gian-ác ở kiếp này,
th́ kiếp sau cuộc sống sẽ càng tệ hại
hơn nữa, đúng không ạ? - Nếu thái độ của bạn tốt lành,
là một người biết sống với ḷng từ bi
hỷ xả th́ kiếp sống tương lai của bạn
sẽ là ở Thiên-Đàng. Nếu bạn làm
những việc tiêu cực, tổn hại, tổn
thương người khác, th́ đương nhiên bạn
sẽ rơi xuống địa ngục. - Như vậy đối với Phật Giáo, nếu
ai làm những việc tốt, sống từ bi th́ sẽ
được lên Thiên-Đàng với một cuộc sống
hạnh phúc. Trong sự tái sinh của ngài, ngài
sẽ trở lại, sống như một con người
tốt lành, có đúng vậy không ạ? - Ô, Vâng! - Hay nói một cách khác nếu là người xấu
xa tội lỗi, họ sẽ phải bị đầu thai thành một con thú? - Đúng vậy! Nếu một người nào
đó, làm những việc vô cùng tệ hại, như giết
người, trộm cướp, kiếp tới chúng có thể
sinh ra trong thân thể của một con thú. Đạo Phật tin tưởng rằng, ngay cả
những con thú có thể cải hóa đời sống thành
loài người trong những kiếp sau. H́nh minh-họa: con chó hiền lành, dễ-thương
của tác-giả - Vậy th́ nếu đó là một con chó rất dễ
thương, nó có thể thoát khỏi địa ngục
như đời sống của thú vật, và chuyển lên
một đời sống tốt đẹp hơn chứ? - Đúng đấy! - Tôi biết nhiều con chó, tôi có nuôi chó, chúng có những
đời sống thật hiền lành, thật tốt, thế
th́ chúng có thể trở lại kiếp khác tốt hơn nữa
phải không? - Tôi nghĩ bà có kinh nghiệm rồi đó. Hăy so
sánh những con vật hiền lành với những người
có trái tim nồng ấm biết cách sống
thiện, c̣n một số con chó dữ chỉ biết cắn
xé nhau th́ làm sao hóa kiếp tốt hơn được
(cười). V́ thế những con chó dễ thương,
tương lai của chúng sẽ tốt đẹp hơn
(cười). - Có phải mọi người
đều tái sinh? - Theo quan điểm
của đạo Phật th́ đúng như vậy! Vị Thánh Vương (God King)
thứ 14 của Tây Tạng sinh ra trong nền văn hóa Tây
Tạng được t́m thấy sau khi người tiền
nhiệm thứ 13 qua đời. Ngài được khám phá bởi
một phái đoàn tu sĩ dày công t́m kiếm và phải
vượt qua nhiều cuộc thử nghiệm, thế rồi
cậu bé 3 tuổi Tenzin Gyatso, được tuyên bố là
hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
13. Tenzin Gyatso và gia đ́nh sau đó rời nhà
để được chuyển đến Điện
Potala ở thủ đô - Thưa Đức Thánh Thiện, ngài được
tin là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma
thứ 13. Khi ngài là một cậu bé, ngài
có thể chỉ ra những món đồ dùng của Đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đúng không ạ? - Điều ấy đúng là như thế! - Cho nên mọi người tin rằng ngài là hóa
thân của của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
13. Như vậy có phải những điều
ấy đến từ kư ức của kiếp sống
trước? - Khi tôi c̣n rất trẻ, dường như những
kư ức rất rơ ràng. Nhưng bây giờ hết
rồi. - Vậy th́ mục tiêu của tái sinh hóa thân là ǵ? Tại sao không cứ ở trên Thiên Đàng thưa
ngài? - Phật Giáo tin rằng mục tiêu tối hậu
là Niết-Bàn hay Giác-Ngộ, trong thể trạng toàn tri toại
nguyện. Niết-Bàn
cao nhất là Quả Phật, hoàn toàn loại trừ tất
cả những cảm xúc tiêu cực, và điều ấy
tự động đưa đến giác ngộ. - Ngài là một bậc giác ngộ chứ, thưa
Đức Thánh Thiện? - Không. Tôi không biết điều ǵ sẽ xảy
ra tối nay (cười)… Và kư ức tôi không
nhớ điều ǵ đă xảy ra hôm qua. Hoàn toàn quên cả rồi (cười). - Vậy th́ nếu ngài giác ngộ, ngài sẽ nhớ
được tất cả? - Ô vâng. - Ngài chưa đạt đến thể trạng
ấy, chỉ phần nào đó thôi chứ ǵ? - Không, tôi xem tôi chỉ như một con người
như những người khác. Không quá đặc biệt ... Màn ảnh chuyển sang khúc phim chiếu cảnh một
người được Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma
choàng vào cổ giải khăn màu trắng, đó chính là
Richard Gere, tài-tử nổi tiếng trong giới Hollywood
Hoa-Kỳ, anh đă t́m học đạo
Phật hơn 40 năm rồi.
Đôi phút tṛ chuyện với Richard Gere xong, Barbara Walters tuyên bố: - Có lẽ từ trước đến giờ
Đức Thánh Thiện Đạt-Lai-Lạt-Ma là một
trong những con người vĩ đại
nhất đă bước chân trên trái đất này! Đúng hay không, th́ Đức
Đạt Lai Lạt Ma cũng là một người phi
thường ngoại hạng. Trước ngài chưa một vị Đạt
Lai Lạt Ma nào ra khỏi Tây Tạng, nhưng ngài đă du
hành một cách rộng răi, trở thành một biểu
tượng của bất bạo động đáp lại
cho sự gây hấn, công kích của những kẻ ác tâm. Năm 2003, đă có sáu mươi lăm ngh́n
người tập trung tại Công Viên Trung Tâm ở - Con người có cùng khả năng như nhau
cho dù giàu hay nghèo. Ngài đă từng nói rằng, mục tiêu của
đời sống là để hạnh phúc. Thế
th́ con người sẽ phải hoàn thành việc này như
thế nào? - Tôi nghĩ là người ta cần sống với
một trái tim nồng ấm. - Thế đấy có phải là ch́a khóa cho hạnh
phúc không? - Ḷng từ bi ấy ban cho bạn sự tự tin
hơn, điều ấy thật sự sẽ thay đổi
thái độ của bạn. - Nh́n vào thế giới hiện nay, chúng ta đang
sống gần thiên đàng hay địa ngục thưa
ngài? - Gần thiên đàng hơn, tôi tin là thế! (đức Đạt-Lai-Lạt-Ma khoan dung trả
lời) Khi cuộc phỏng vấn qua
đi, tôi chấm dứt một ngày với ḷng chân thành của
Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi cảm nghiệm rằng
ḿnh đă được làm việc thật sự với
một vị lănh tụ của thế giới. - Cho phép tôi có thể hỏi ngài về một
điều? - Vâng. - Tôi có thể hôn trên má ngài được không? - Ô vâng, được chứ! Và rồi tôi đă hôn trên má Đức
Đạt Lai Lạt Ma, ngài cười ha hả. Sau đó ngài đă
chỉ cho tôi cách hôn của người Tân-Tây-Lan như thế
nào. Ngài ra dấu mím kín môi lại và hai
người chạm đầu mũi vào nhau. Cả hai cùng cười vang và rồi
ngài rời nhóm người quay phim để trở về
lại chốn thiền-môn. Chúng tôi vừa lược sơ
qua buổi phỏng vấn của Barbara Walters trong
chương tŕnh truyền-h́nh 20/20 đài “abc” với chủ-đề:
“Thiên-Đàng là ǵ?
Thiên-Đàng ở đâu? Làm sao đi đến
đó?” Từ thưở bé thơ khi bắt đầu
có trí khôn chúng tôi đă được Bố-Mẹ, Thầy-Cô
dạy rằng phải sống tốt với mọi
người trong gia-đ́nh, thân-tộc, bằng-hữu,
láng-giềng… Ngay cả những người
không cùng huyết thống cũng không thể hành xử ác với
họ, thấy kẻ thiếu thốn th́ giúp đỡ, gặp
người đau khổ phải ủi an. Các con hăy tạo-dựng
Thiên-Đàng trong cuộc sống hiện-thực, đừng
mang hỏa-ngục đến cho nhau. Lớn lên sau này lúc phải bon trải
(bon-chen & từng-trải) với cuộc sống, bên cạnh
những thành-công rực rỡ nơi chốn phồn-hoa
đô-hội, chúng tôi thực sự đă gặp nhiều
thất-bại cay đắng trong trường đời. Những
lúc ấy tôi lại nhớ đến lời Mẹ dạy:
“Ngọc kia không dũa, không mài.
Cũng thành vô-ích cũng hoài Ngọc
đi!” Nhớ
hoài câu thơ này nên lúc nào tôi cũng tâm-niệm rằng ḿnh
phải sống “Ích Quốc, Lợi Dân” dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào phải giữ cái “Tâm” an-lạc. Nói về chữ “Tâm” tôi chợt nhớ đến
cuốn sách “Đường Về Xứ Phật” trong tập
III của Ḥa-Thượng Thích-Thông-Lạc. Thầy đă viết rằng: Bất động tâm định
là tâm bất động trước các pháp, trước cảm
thọ, chứ không phải là ngồi yên bất động. Đường lối
tu tập của đạo Phật không phải diệt niệm
thiện, niệm ác, mà phải xa ĺa ḷng ham muốn và các
ác-pháp trong ta. Phải sống và nuôi lớn thiện-pháp, nghĩa
là diệt tầm ác mà sống với tầm thiện (ly dục,
ly ác-pháp), để đem lại cuộc sống an vui và hạnh-phúc cho ḿnh, cho người. Khi sống với tầm thiện
th́ tâm ta thanh tịnh, không có hoàn cảnh, đối tượng
nào khiến tâm ta dao động; do đó gọi là tâm giải
thoát, không c̣n khổ đau trong kiếp sống làm người. Người sống được như vậy
gọi là nhập Bất Động Tâm Định hay là nhập
Vô Tướng Tâm Định. Nên nhớ tâm thanh tịnh
(tâm như đất) là tâm thiền định của
đạo Phật, chớ không phải tâm hết vọng
tưởng (chẳng niệm thiện, niệm ác). Tâm thanh tịnh là tâm có đủ đạo lực
sai khiến (điều khiển) được sanh, già, bệnh,
chết; tức là làm chủ nhân-quả, hay c̣n gọi là làm
chủ sống chết (muốn chết lúc nào cũng
được, muốn sống lúc nào cũng được). Đó mới gọi là sanh tử tự tại! Tóm lại, muốn
giải thoát th́ phải nhập vào Bất Động Tâm
Định. Nhờ đó mà dục lậu, hữu lậu,
vô minh lậu mới diệt sạch. Bất
động tâm định là một tên khác của Sơ-Thiền,
ly-dục, ly-ác-pháp. Đức Phật dạy để
ly-dục, ly-ác-pháp nhập Sơ-Thiền. Khi gặp các
ác-pháp tấn công dữ dội th́ phải cố gắng nhẫn-nhục.
Ở đây, Phật dùng h́nh ảnh “cắn
chặt răng và dán chặt lưỡi lên nóc họng” ư
nói cố gắng nén tâm, hết sức kham nhẫn chịu
đựng để vượt qua cơn thử thách của
ác-pháp. Nhờ tận lực như vậy
ta mới có thể vượt qua cơn sóng gió băo bùng của
tâm. "Thắng trăm trận không bằng tự thắng
ḿnh, thắng ḿnh mới là chiến công oanh liệt". Cuộc đời tu hành của
chúng ta là một cuộc chiến đấu không ngừng,
trường kỳ gian khổ chứ không phải tụng
kinh, niệm chú, ngồi thiền mà chiến thắng
được tham, sân, si, mạn, nghi, v.v... Đây là
phương pháp ít khi dùng, v́ cuộc đời người
tu sĩ của đạo Phật sống trầm lặng
một ḿnh nên ít xảy ra các ác-pháp. Tuy nhiên, nếu thiếu
sự pḥng hộ sáu căn, khi tiếp
duyên bên ngoài cũng có thể xảy ra dữ dội. (VIII /
92-100) Hăy tập niệm hằng ngày câu pháp hướng
tâm: “Tâm như đất, ĺa tham, sân, si là hết khổ”, sẽ
có hiệu quả giải thoát trong những ngày cuối cùng
của cuộc đời. Lúc bệnh tật khổ đau cũng như lúc
gặp các ác-pháp th́ con hăy nhắc tâm: “Tâm phải bất
động trước các ác-pháp, không được sợ
hăi, hăy b́nh-tĩnh, hăy gan dạ, tất-cả đều là
do nhân-quả” Tâm như cục đất là
tâm con đă xả sạch, chừng đó con chẳng cần
tu tập thiền định nào cả, lúc nào con cần nhập
định là nhập được ngay liền, không khó
khăn, không mệt nhọc, không có phí sức. Tâm như cục đất,
đó là sự ước muốn của con. Muốn cho tâm không
c̣n tham, sân, si, mạn, nghi nữa là tâm sẽ hết khổ
đau. Sự ước muốn như
vậy, nếu con không cố gắng khắc phục tâm
ḿnh ly tham, đoạn ác-pháp th́ làm sao tâm thành đất
được. Muốn cho tâm thành đất th́ con phải tu tập
Bát Chánh Đạo. Nghĩa là nói cách thức sống
ngăn ác và diệt ác-pháp, sanh thiện tăng trưởng
thiện-pháp hay nói cách khác là sống toàn-thiện. Muốn sống toàn thiện th́ phải có Chánh kiến,
Chánh kiến tức là thấy đúng nhân-quả-thiện
và ác, chứ không phải thấy đúng-sai-phải-trái-tốt-xấu… Trong cuộc sống bất cứ
một việc ǵ khi xảy đến, chúng ta đều
phải nh́n với ḷng thiện, ḷng từ, ḷng bi, ḷng hỷ,
ḷng xả. Nếu chúng ta nh́n thấy
bất cứ việc ǵ với ḷng bất thiện, không từ,
không bi, không hỷ, không xả th́ ác-pháp sẽ đến với
chúng ta ngay. V́
thế tâm chúng ta sẽ khổ đau, và như vậy tâm
không thể thành đất được. Muốn tâm thành đất chúng ta phải có sự
tư duy, suy nghĩ thiện và ác trong bất cứ một
sự việc ǵ xảy ra, thiện th́ chúng ta tăng
trưởng để mà sống, không làm khổ ḿnh - khổ
người, c̣n ác th́ chúng ta tư duy suy nghĩ quét sạch
những pháp-ác ấy ra khỏi tâm, để đem lại
cho tâm một sự thanh-thản, an-lạc và vô-sự. Nhờ
có tu-tập được như vậy th́ cuộc sống
mới có an vui, hạnh phúc. Muốn tâm thành đất th́
chúng ta phải biết khéo-léo giữ-ǵn tâm không phóng dật. Muốn
thực-hiện điều này th́ lúc nào cũng cần phải
nhớ nhắc tâm:“Tâm không được
phóng dật, phải định vào thân đi” hay “Tâm định
vào hơi thở đi”, hoặc “Tâm như đất hăy
ĺa ngay tham-sân-si- mạn-nghi đi”. Trong tất cả câu pháp hướng này, tùy theo mỗi người mà chọn lấy cho
ḿnh một câu phù hợp với đặc tướng, c̣n
riêng Thầy th́ câu: “Tâm không được phóng dật phải
định vào hơi thở đi”, th́ rất phù hợp. Tại sao vậy?
Tại v́ câu này có hai tác dụng: 1- Bắt buộc tâm không được phóng dật
theo ra các pháp. 2- Bắt buộc tâm phải định vào hơi
thở (định vào thân). Nếu tâm không phóng dật là tâm thành đất,
tâm thành đất là tâm bất động, tâm bất động
là con đă viên măn con đường tu tập theo Phật giáo của ḿnh. (ngưng
trích). Tất-cả chúng ta đang sống
trên một xứ sở tự-do, nơi được mệnh
danh là cường-quốc số 1 trên thế-giới. Thế nhưng có mấy ai đă từng tư-duy
về cơi Thiên-Đàng như Barbara Walters? Hoặc v́ quá bận
rộn với đời sống vật chất? Hay v́ Thiên-Đàng là chốn hư-ảo
trong trí tưởng-tượng của con người? Đối với thiển-ư của chúng tôi th́
Thiên-Đàng có thật ngay cơi hiện-sinh này nếu chúng ta
biết t́m về Chân-Thiện-Mỹ, sống tha-thứ, hiền-ḥa,
tốt đẹp, không mang khổ đau, hay dằn vặt
cắn xé nhau. Chúng tôi cũng tin chắc rằng những kẻ ác
độc, gian tham, thích làm cho người khác đau đớn,
lo sợ, khổ nhục, chúng sẽ không biết đến
Thiên-Đàng là ǵ và cũng không t́m được
Thiên-Đàng trong đời này hay trong những kiếp
sau./. (Viết trong niềm tôn-kính mừng sinh-nhật thứ
77 của đức Đạt-Lai-Lạt-Ma thứ 14: July
6, 2012)
|