BƯỚC KHÔNG QUA SỐ
PHẬN Đỗ Duy Ngọc sanh năm 1950 tại Đà Nẵng,
hiện đang sống tại Sài G̣n. Ông kể lại cuộc
đời ḿnh và người bạn chí thân tên Nhân (Siêu Nhân)
mà ông cho là một THIÊN TÀI BỊ ĐOẠ. Cả 2 người
đều là Sinh Viên ưu tú du học ở Pháp …Cuộc
đời 2 người thăng trầm theo vận mệnh
từ năm 1964 đến năm 2011 là một đoạn
đường rất dài …Chuyện ǵ đă xảy ra? Chuyện
hồi kư rất hay! Mời các bạn đọc: 1. Tôi học chung với Nhân từ năm 1964 lớp đệ ngũ.
Trước đó, tôi có năm năm học nội trú
trường Pellerin, một trường ḍng Lasan ở Huế
do các Frère giảng dạy.
Những năm học ở đó, tôi luôn đứng đầu
lớp, là niềm tự hào của các Frère phụ trách và gia đ́nh.
Nhưng từ khi về học ở Đà nẵng, tôi
chưa bao giờ vượt qua được Nhân. Lúc nhỏ
tôi rất xấu tính, hay ganh tị, không muốn ai hơn
ḿnh. Do vậy, tôi chẳng ưa ǵ Nhân. Thành phố này có hai ông Đốc. Một ông Đốc
học phụ trách chuyện giáo
dục của toàn thành, ông Đốc này là ba Nhân. Ông
Đốc thứ hai là ông Đốc tờ, tức là ba
tôi, quản lư ngành y tế của thành phố. Mấy ông
quan chức thường tụ
họp nhau vào sáng chủ nhật ăn sáng, uống cà phê,
bàn chuyện thời thế.
Sau khi mất nhiều th́ giờ trao đổi chuyện
chính trị, chuyện thế sự, chuyện tiếp
đó thường là chuyện con cái. Và lần nào cũng vậy,
việc học hành giỏi giang, thông minh của Nhân lại
được đem ra tán dương. Mỗi lần nghe
chuyện, tôi rất khó chịu. Tự nghĩ ḿnh cũng học
giỏi có thua ǵ Nhân mà chẳng bao giờ được nhắc
tới. Nhân càng được ngợi khen, tôi càng thêm ghét hắn.
Khác hẳn tôi, Nhân rất muốn làm thân với tôi. Tôi càng tránh hắn càng cố đến gần. Lần nào gặp
tôi hắn cũng nở nụ cười thật
tươi, c̣n tôi th́ mặt nặng như ch́. Nhân đẹp
trai, tuy người hơi thấp. Da trắng, mũi cao, mấy
lọn tóc xoăn lúc nào cũng ḷa x̣a trước trán. Môi
lúc nào cũng đỏ như son. Mà kể cũng lạ.
Nhà ông Đốc học có năm người con, hai trai ba
gái, chỉ có ḿnh Nhân là đẹp, mấy đứa c̣n lại
đứa nào cũng xấu như ma. Lại thêm có đứa
con gái kế Nhân bị thần kinh, hay bỏ nhà đi lang
thang, đứa em trai út th́ bị bệnh down, lúc nào cũng
ngơ ngác, nước dăi chảy ḷng tḥng. V́ cảnh nhà
như thế nên ông Đốc học rất kỳ vọng
ở Nhân, Nhân là niềm tin, niềm tự hào và cũng là lẽ
sống của ông. Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy
hắn giỏi, nhất là những môn toán, lư, hóa. Thầy dạy
môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học tṛ rất
mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt,
tóc chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói rất
điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy
đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau
thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh
nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối
đa, c̣n giải sai th́ khỏi có điểm. Nhân luôn luôn
là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn
nộp trễ hơn một chút th́ có nghĩa hắn giải
bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng giải
toán h́nh học, hắn vẽ h́nh bằng tay trái c̣n tay phải
ghi lời giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp
thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy c̣n bảo
với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần
ghi chép, muốn làm ǵ th́ làm. Các thầy dạy môn lư, hóa cũng
bảo hắn thế. Nghe vậy, hắn chỉ cười,
giờ học nào cũng ghi chép rất cẩn thận. Không những học giỏi, Nhân c̣n đá banh rất siêu, đánh cờ
tướng rất cừ. Lại thêm rất giỏi vơ.
Không biết hắn học vơ từ khi nào mà tay hắn cứng
như thép, cỡ mấy viên gạch xây nhà hoặc năm
ba viên gạch thẻ chỉ cần hắn vung tay là bị
bể đôi ngay. Hắn múa gậy vun vút, đá ném không chạm
vào người hắn. Cỡ hai người công kênh nhau,
người trên cầm mấy cục gạch, hắn chỉ
cần lấy đà chạy ba bước, bay lên đá viên
gạch vỡ nát. Hay nhất là trèo tường. Nhân chạy
lấy đà, tung người thẳng góc với bức
tường, chạy thoăn thoắt lên trần nhà. Y
như là mấy nhân vật trong truyện kiếm hiệp của
Kim Dung. Mỗi lần Nhân làm tṛ, cả bọn học tṛ
chúng tôi trố mắt, há mồm mà nh́n, lắc đầu
thán phục. Mọi người đặt cho hắn cái
tên là Siêu Nhân. Tôi vừa sợ vừa ghét hắn. Tôi vốn
ốm yếu, lại chúa nhát gan, chúng bạn gọi tôi là
con mọt sách. Cho nên dù không ưa, tôi cũng nể sợ hắn.
Không biết có phải v́ vơ công thâm hậu quá mà đôi mắt
của Nhân trông lạ lắm. Ánh nh́n như dao sắc,
như có lửa, như muốn bóp nát người ta, đầy
sát khí. Tôi thường tránh ánh mắt của hắn. Nụ
cười của hắn thân thiện nhưng đôi mắt
th́ đầy hăm dọa. Trong các môn học, tôi chỉ nhỉnh hơn Nhân môn Pháp văn
và hai môn phụ là âm nhạc và hội họa. Bởi những
môn này tôi được rèn luyện năm năm ở
trường ḍng Lasan. Nhưng đến năm đệ
tam, tiếng Pháp của hắn tiến bộ đến
không ngờ, đến thầy giáo già dạy Pháp văn cũng
ngạc nhiên. Sau này tôi mới biết là suốt cả mùa
hè hắn chỉ tập trung vào môn học đó, cả ngày
nghe đài Pháp để luyện giọng và lảm nhảm
luôn mồm mấy từ vựng. Có một lần t́nh cờ
tôi thấy trên b́a sách Pháp văn của Siêu Nhân có ghi câu bằng
chữ in đậm VOULOIR C'EST POUVOIR. Có lẽ đó là quan
niệm của Nhân. Cuối năm đệ tam, Nhân lại khiến
cho các Thầy và đám học tṛ thêm thán phục khi giải
bài thi toán tú tài 1 ban B chỉ trong 27 phút. Hắn lại tiếp
tục là tấm gương cho các bậc cha mẹ thường
nhắn nhủ các con: gắng học cho giỏi như anh
Nhân. Hắn đi đến đâu cũng được
mọi người trầm trồ khen ngợi. Bởi thời
đó, người giàu có không được trọng nể
bằng người học giỏi. Ngay cả những
quan chức cũng rất trân trọng người tài, học
tṛ gỉỏi. Năm học đó, hắn lănh phần
thưởng lớn lắm, phải thuê xích lô chở về
nhà. Ông Đôc học rất hănh diện. Mà hănh diện cũng
phải thôi, cha mẹ nào lại không sướng khi có
người con như thế.
Trong lớp chúng tôi, thường chia ra hai nhóm rơ rệt.
Mấy đứa nhỏ con, học kha khá thường ngồi
mấy bàn trên, c̣n mấy bàn cuối lớp mà mấy thầy
gọi là xóm nhà lá toàn là mấy đứa bự con, ba trợn,
chơi nhiều hơn học và thường chọc phá mọi
người. Cầm đầu xóm này là thằng Hồ Lê.
Đó là một thằng sừng sỏ tuy cũng có tố
chất thông minh, học hành cũng không đến nỗi
tệ. Hồ Lê người đen gịn, cao to lừng lững,
mặt chữ điền, góc cạnh. Ngay trên trán có một
vết sẹo dài khiến khuôn mặt của hắn càng
thêm vẻ anh chị. Hắn bảo đó là vết tích chiến
tranh. Hỏi thêm nữa hắn sẽ trừng mắt
hăm dọa nên chẳng ai dám lên tiếng thắc mắc
nữa. Nhà Hồ Lê nằm
trong hẻm sâu sau lưng nhà tôi, mẹ hắn bán rau hành ở
chợ. Nhà hắn trơ trọi chỉ hai mẹ con và
không bao giờ hắn nhắc đến cha. Tôi sợ hắn
lắm, v́ hắn h́nh như rất ghét tôi, cứ t́m mọi
cách để sinh sự. Mỗi lần gặp tôi hắn thường dí
tay vào trán tôi mà gầm gừ: đồ quư tộc dơ bẩn. Tôi cũng chẳng
biết sao hắn lại bảo tôi thế. Tôi vốn nhát
như cáy nên thường t́m đủ mọi cách để
tránh mặt hắn. Tránh hắn nhưng miệng lầm bầm:
ĐM thằng Lê sẹo,
rồi ông sẽ giết mày, anh hùng báo thù mười
năm chưa muộn. Nói thầm thế thôi, chứ thấy
bản mặt nó là tôi đă sợ chết khiếp, nổi
gai cả người. Nhưng tôi càng tránh, hắn lại
t́m đủ mọi cách để trêu ghẹo tôi. Lúc th́
đi đàng sau khèo chân cho tôi té. Khi th́ búng tai, giựt tóc
mai của tôi rồi cười cợt với một lũ
âm binh ăn ké. Một hôm chúng tôi được nghỉ tiết
cuối, đang trên đường về nhà th́ tôi bị đám thằng Hồ
Lê chận đường. Hắn đứng trước
mặt tôi, hai chân khuỳnh khuỳnh, cái mặt kênh kênh. Hắn
bảo tôi rúc dưới háng hắn mà đi. Mặt tôi xanh
như đít nhái. Vừa tức vừa sợ. Miệng lắp
bắp định van xin.
Đường vắng teo, chẳng có ai có thể
giúp tôi. Tôi nghĩ phen này chắc tiêu. Không chết v́ nhục
th́ cũng ốm đ̣n với hắn. Hắn xắn tay
áo, hai cánh tay cuồn cuộn. Vung tay. Tôi nhắm mắt,
tưởng như muốn đái cả quần. Hai chân muốn
quỵ xuống, bởi tôi vốn nhát đ̣n. Tôi chờ
đợi cú đấm như trời giáng của hắn.
Bỗng nghe tiếng hự..hự.. huỳnh huỵch…
như ai đấm bao cát. Sao tôi chẳng thấy đau. Hé mắt nh́n, thấy thằng Lê đang nằm chỏng
gọng, mặt nhăn nhó, méo xẹo. Trước mặt
hắn là Nhân. Siêu Nhân. Nhân chỉ tay vào mặt hắn và bảo: - Tao cấm mày đụng đến
thằng Ngọc, tao là bạn nó. Thằng nào ăn hiếp
hắn sẽ biết tay tao. Liệu hồn. Cút…Bọn thằng
Lê chạy một mạch không ngoái đầu. Nhân vỗ
vai tôi, cười: Đừng sợ chúng, cứ sợ măi
th́ chúng cứ ức hiếp hoài. Từ đó, tôi và Nhân thân nhau. Đi đâu cũng
có đôi. Và đám thằng Lê
cũng không dám đụng vào tôi nữa, dù ánh mắt
nó cũng c̣n gầm ghè. Đến lớp đệ nhị, tôi chọn
ban A c̣n Nhân tiếp tục ban B. Bởi ba tôi muốn chuẩn
bị cho tôi lên học y khoa nên bảo tôi học ban Vạn
vật. Hơn nữa tôi cũng c̣n háo thắng, muốn học
khác lớp với Nhân để được đứng
đầu lớp, chứ học chung tôi không vượt
qua được hắn. Dù khác lớp nhưng chúng tôi vẫn
đi chơi chung với nhau, gắn bó với nhau như
hai anh em. Nhân thường dẫn tôi đến quán nước
ở góc sân trường. Chủ quán là chị Đầm.
Tôi gọi bằng chị v́ chị lớn hơn chúng tôi
vài ba tuổi. Chị bị rỗ huê nên bọn học tṛ
thường gọi là chị Đầm rô. Chị to lớn
như đàn ông, giọng ồ ề, lại khoái hút thuốc
lá nên môi thâm x́. Tuy vậy, chè đậu của quán chị
rất ngon, nên lũ học tṛ rất khoái tụ tập ở
quán chị. Chị Đầm lại rất ái mộ Nhân,
xem Nhân như thần tượng, ánh mắt nh́n Nhân rất lạ. Tại quán đó, tôi bị
chị dụ tập hút thuốc lá và thói quen này theo suốt
đời tôi. Và cũng tại quán đó trong một buổi
trưa trú mưa, tôi biết lý do tại sao Nhân
cứ muốn làm thân với tôi.
Số là cạnh nhà tôi có một
gia đ́nh rất giàu có, là chủ của mấy rạp xi
nê và khách sạn ở Đà Nẵng, Huế, Qui Nhơn và
Nha Trang. Chủ nhân vốn xuất than từ hoàng tộc
tên Bửu Hân. Nhà có cậu con trai út tên Vĩnh Đệ c̣n
nhỏ và hai cô con gái rất đẹp, cô chị tên Huyền
Tôn Nữ Dạ Lan, cô em là Huyền Tôn Nữ Dạ
Hương. Mỗi cô có nét đẹp riêng. Dạ Lan đẹp
kiêu sa, đài các. Dáng thanh mảnh, thướt tha. Cổ
cao ba ngấn, da trắng như ngà, tóc dài chấm mông, mặt
như Đức Mẹ, mắt lúc nào cũng buồn
vời vợi. Suốt ngày ngoài giờ học
chỉ thơ thẩn trong vườn đọc sách,
đan len, chiều chiều lại đánh đàn piano cho
đến tối. Dạ Lan thích mặc áo màu tím Huế. Dù
là áo dài đi phố, đi lễ nhà thờ hay áo cánh đi
chơi, cô chỉ chọn độc một màu tím rịm.
Cô em Dạ Hương th́ trái ngược với chị. Mới
mười lăm tuổi mà bộ ngực đă tṛn
to khêu gợi. Tóc cắt ngắn, da rám hồng. Suốt ngày
sau giờ học chỉ đi tắm biển và đánh quần
vợt. Chỉ thích mặc áo thun và quần jean, cỡi xe
Honda chạy vù vù. Đọc toàn báo Tây, hát toàn nhạc Pháp.
Tuần nào cũng đi nhảy đầm với lũ bạn
học cùng trường Lycée Blaise Pascal V́ ở cạnh nhà lại là
đồng hương nên gia đ́nh tôi rất thân với
nhà đó. Lễ tết, giỗ
chạp, tang ma hiếu hỉ đều qua lại với
nhau. Nhân thích Dạ Lan. Nhân thổ lộ với tôi như vậy.
Và Nhân muốn qua tôi làm quen với cô ấy. Chuyện dễ
ợt, chẳng có chi khó khăn. Nhưng tôi lại bảo
với Nhân là chuyện này khó lắm, cần phải có thời
gian. Nhân cầm tay tôi lắc lắc: - Cố nghe, cố
nghe. Việc làm ông mai tiến hành
quá suôn sẻ, tôi ướm lời với Dạ Lan: - Tôi
có anh bạn ái mộ Dạ Lan lắm, anh ấy muốn
tôi giới thiệu với Dạ Lan. Cô ấy thoáng chút ngạc nhiên - Ai vậy? Quen hay lạ? - Dạ
Lan biết người này mà. - Nhưng mà ai mới
được chứ. Tôi
cười bảo: - Anh Nhân, bạn thân của tôi - Anh Nhân
con ông Đốc Lễ phải không? Tội gật. Dạ Lan cười:
- Tưởng ai. Sau này, khi hai người
đă gắn bó nhau, tôi mới biết hóa ra Dạ Lan cũng
đă để ư đến Nhân lâu rồi. Th́ trai tài gái sắc,
đến với nhau là lẽ đương nhiên của
cuộc đời. Hai người yêu nhau thắm
thiết lắm. Hai gia đ́nh cũng thoáng biết nhưng
chẳng có ư kiến ǵ. Mà thật ra c̣n đ̣i hỏi chi, vừa
môn đăng hộ đối, vừa đôi lứa xứng
đôi. Nhân cám ơn tôi nhiều lắm. Chúng tôi hay đi chơi với
nhau, ngoài tôi, Nhân, Dạ Lan c̣n có Dạ Hương. Thường
là đi xem phim, đi ăn kem hoặc đi dạo bên bờ biển. Dạ Hương sôi nổi,
nhí nhảnh c̣n Dạ Lan khép nép, dịu dàng. Một hôm, chúng
tôi đi dạo trên bờ biển, trời vừa tối,
chân trời ráng đỏ. Dạ Hương kéo tay tôi và bảo
khẽ: Ḿnh tránh đi cho anh chị ấy tâm sự, cứ
như thế này th́ anh chị ấy tâm t́nh làm sao được. Dạ Hương kéo tôi chạy
vào hàng phi lao, trời tối hẳn,
những ngọn gió xào xạc. Theo đà chạy dưới
cát lún, Dạ Hương ngă vào người tôi, ôm cứng,
hơi thở gấp. Theo quán tính, tôi cũng ôm siết lấy
nàng, hai bầu ngực căng khép vào ngực tôi. Tôi thấy
ḿnh căng cứng. Dạ Hương vít đầu tôi xuống,
hôn trên môi tôi. Tôi như đang bay bổng v́ nụ hôn đầu
đời. Tôi chẳng biết phải
hôn trả lại thế nào nữa. Tôi lạng quạng và
thả lỏng đôi tay. Bỗng dưng tôi cảm thấy
sợ. Hóa ra tôi luôn luôn vẫn là thằng nhút nhát. Kiểu tấn
công mạnh mẽ của Dạ Hương làm tôi hăi, dù phần
dưới cơ thể của tôi đă đông cứng lại
rồi. Tôi bỏ đi và như kẻ mộng du. Tôi bỗng
muốn khóc. Dạ Hương chạy theo tôi hét lớn:
Anh có phải là đàn ông không? Tôi ngồi xuống giữa
băi cát và tự hỏi, ḿnh có phải là đàn ông không? Từ đó, Dạ
Hương tránh mặt tôi, và tôi cũng có ư không muốn gặp
nàng. Tôi vẫn tự nhủ
ḿnh tệ quá. Kỳ thi Tú tài 1 năm đó, tôi và Nhân đều đậu
Ưu hạng. Cả hai gia đ́nh rất vui. Hôm lănh thưởng
ở trường, đôi mắt của ông Đốc học
ba Nhân ánh lên niềm tự hào, sung sướng và măn nguyện.
C̣n đôi mắt của Dạ Lan th́ tràn đầy hạnh phúc. Ba tôi dù theo Tây học,
nhưng lại rất mê nghiên cứu Kinh Dịch. Có một
người Hoa thường đến trao đổi cùng
ba tôi. Người này tên Lư Hạnh, chuyên nghề phong thủy
và tướng số. Hai người tâm đắc lắm,
thường nói chuyện với
nhau cả buổi mà không chán. Một hôm, khi ba tôi và chú
Lư Hạnh đang nói chuyện
với nhau th́ t́nh cờ tôi nghe được cả hai bàn
về Nhân. Ông Lư Hạnh bảo:
- Cậu Nhân tướng toàn tốt, thông minh hơn người,
nhưng ánh mắt lộ hung quang, tôi e cậu ấy nếu
không học đựợc chữ nhẫn sẽ phải
phạm tội sát nhân, hậu vận xấu lắm. Ba tôi
trầm ngâm một lát rồi hỏi đến
tương lai của tôi, Ông Lư Hạnh im lặng một
lát rồi gật gù: - Cũng tạm. Ba tôi nhíu mày: - Cụ
thể là sao? - Ông Đốc cũng
đă nghiên cứu lư số. Số nói sao th́ nghe vậy. C̣n
cụ thể th́ chịu. Nhiều khi thiên cơ bất khả
lậu - Nhưng đôi khi cũng nhân định thắng
thiên - Dạ, cũng có thể.
Nghe được vậy, lúc đó tôi hơi hoang
mang, nhưng rồi tuổi trẻ chóng quên. Tuy thế lâu
lâu nh́n ánh mắt của Nhân, tôi cũng cảm thấy ghê
ghê. Cũng cuối năm ấy,
Dạ Hương bỏ nhà
đi. Có tin đồn đă kết hôn với một sĩ
quan Mỹ ở Sài G̣n. Tôi cứ tự hỏi là ḿnh có lỗi
ǵ trong tai ương này không? Tết năm Mậu Thân 1968,
chiến tranh lan vào nhiều thành phố. Huế bị nặng
nhất, rất nhiều người chết trong những
ngày xuân. Đà Nẵng cũng không tránh khỏi bị tấn
công, nhưng không bị chiếm đóng. Sau Tết, lớp
học thưa thớt hẳn, đứa đi lính, đứa
đi đâu mất dấu. Trong những đứa vắng
mặt, có Hồ Lê. Nghe đồn nó đă lên núi, gia nhập
quân giải phóng quân. Chúng tôi đậu Tú tài 2 dễ
dàng. Nhân lại đậu Ưu hạng, tôi chỉ đậu B́nh. Tôi lại thua
Nhân…. Vào Sài g̣n làm thủ tục du
học, thời gian chờ đợi khá dài, tôi ghi danh học
Văn khoa, c̣n Nhân thi vào trường Kỹ sư Công nghệ
Phú Thọ, học cho vui để quên th́ giờ chờ
đợi. Thế mà hắn cũng đỗ hạng nh́ kỳ
thi tuyển vào Phú Thọ năm đó. Tôi vừa xong lớp
dự bị ban Văn chương Việt Nam th́ có giấy
lên đường. Ngày tôi và Nhân rời Việt
Nam đi Pháp du học, hai gia đ́nh tiễn ra phi trường.
Ba Nhân ôm vai Nhân: - Gia đ́nh và gịng họ tin tưởng vào con. Ba tin chắc
con làm được như ước nguyện. Nhân gật
gật đầu, mắt lóe lên niềm hy vọng lớn
lao. Dạ Lan mặc áo dài tím, quấn khăn quàng tím nhạt,
nước mắt hoen mi. Dạ Lan cầm tay Nhân lắc
măi mà chẳng nói ǵ. Ba tôi bắt tay tôi, bảo khẽ: - Cố
lên nhé! Hôm qua tôi và ba đă nói chuyện
với nhau rất lâu về chuyện truyền thống ba
đời làm ngành y, về việc phải tiếp nối
nếp nhà. Thật ra, tôi chẳng thích thú ǵ chuyện du học.
Tôi sợ cô đơn ở xứ
người, tôi sợ những bất trắc sẽ xảy
đến mà chung quanh chẳng có ai giúp đỡ. Tôi
như con chim non được nhốt trong lồng son, giờ
được thả ra, chẳng định được
phương nào để bay đến. Nhưng tôi phải
bay đi. Đi và mang theo niềm hy vọng của cả
gia đ́nh. Bước lên máy bay, nước mắt tôi cứ
muốn trào ra, hai bàn chân tôi như có ǵ níu lại. Rời Việt
Nam, tôi vẫn chưa có mối t́nh nào vắt vai, không có cô
gái nào đưa tiễn. Tôi thấy Nhân hạnh phúc v́ c̣n có
t́nh yêu để đợi chờ. Chuyến bay kéo dài hơn hai
mươi tiếng đồng hồ, chúng tôi nói nhiều
chuyện với nhau về tương lai. Thế giới
đang mở ra với chúng tôi, và cả hai đang bước
vào và tin sẽ chiến thắng. Hai đứa vẽ ra cảnh
tượng lúc thành đạt trở về trong niềm
hoan hỉ của mọi người. Nhân bỗng bảo
tôi: - Cậu chơi piano thế cậu có biết loại
đàn nào tốt nhất không? - Để làm ǵ, sao tự
nhiên lại đi hỏi về đàn lúc này? - Th́ cứ nói
đi - Theo ḿnh biết th́ hiện
nay đàn hiệu Steinway & Son là tốt nhất, ở Việt Nam chỉ có một hai
cái. Nhưng đắt lắm. Cậu đang có ư định
ǵ vậy? Nhân lim dim mắt, cười
cười, nh́n ra bầu trời trong xanh: - Khi nào thành
đạt, làm ra tiền, ḿnh sẽ mua cho Dạ Lan một
cây đàn như vậy. ******* 2. Chúng tôi chia tay nhau ở phi
trường, Nhân sẽ ở lại Paris thi vào trường
Đại học Bách khoa Paris. Tôi lại tiếp tục
đi gần 750 cây số nữa về Montpellier, một
thành phố nằm gần biển Địa Trung hải,
để thi vào trường Y. Đại học
Montpellier là một trong những
trường đại học Y khoa nổi tiếng thế
giới, nơi đào tạo nhiều nhà khoa học đă
được nhiều giải thưởng y học quốc
tế. Phải mất 9 tháng học
dự bị tôi mới thi
đậu vào trường, dù chỉ đứng thứ 26, nhưng cũng
vui v́ đă đi được bước đầu. Nhân thành công hơn tôi nhiều.
Chỉ mất 6 tháng, Nhân đă đỗ thủ khoa vào
trường Đại học Bách khoa Paris (École
polytechnique) Đây là trường
đào tạo kỹ sư danh giá nhất nước
Pháp. Đúng ra Nhân phải học đủ một năm dự
bị theo chương tŕnh EV1 dành cho học sinh Pháp và các
nước nói tiếng Pháp. Nhưng chỉ một thời
gian ngắn học ở Lycée Louis – Le – Grand, Ban giảng huấn
ở đó nhận thấy Nhân quá xuất sắc nên đặc
cách cho thi trước thời hạn. Mục đích phấn
đấu của các sinh viên học trựng này là trở
thành nhân lực cấp cao của nưóc Pháp và thông thường
10 sinh viên đứng đầu sẽ được lựa
chọn trở thành Corps de Mines, được tham gia chương tŕnh đào tạo
nhân lực lănh đạo tương lai. Đây cũng
là trựng đă tạo ra ba vị tổng thống của
nước Pháp: Valéry Giscard d'Estaing, Sadi Carnot, Albert Lebrun.
Giáo sư Hoàng Xuân Hăn và giáo sư Nguyễn Văn Xuân của
Việt Nam cũng tốt nghiệp từ trựng này. Nhân là ngựi nước
ngoài đầu tiên đỗ
thủ khoa kỳ thi tuyển vào trường, nên trở
thành một sự kiện được báo chí Pháp chú ư.
H́nh chân dung của Nhân được đăng trên nhiều
tờ báo, là niềm tự hào của giới sinh viên du học
và những người Việt Nam đang ở Pháp thời
bấy giờ. Ở Montpellier, trong giới sinh viên cũng
bàn tán chuyện này dữ lắm. Nhưng Nhân không ngừng lại ở đó, trong thời gian theo học,
Nhân là một nhân vật nổi bật toàn diện. Không những
học giỏi, Nhân c̣n là cầu
thủ xuất sắc của đội bóng tṛn sinh
viên Paris, là kỳ thủ không thể qua mặt của bộ
môn cờ, Nhân c̣n là huấn luyện viên vơ thuật của
vơ đường trong khu đại học, đồng thời
đă mang về cho trường rất nhiều huy chương trong các cuộc thi
đấu. H́nh ảnh Nhân liên tục được
đăng trên các báo sinh viên và
một số báo thể thao. Đă có lần một câu lạc
bộ nhà nghề nổi tiếng của Paris đề nghị
Nhân kư hợp đồng để được đào tạo
làm cầu thủ bóng đá
chuyên nghiệp, nhưng Nhân từ chối. Tiếng tăm
Nhân vang dội trong cộng đồng sinh viên của các
trường đại học, Nhân đă từng
đưọc tiếp đón và nhận phần thưỏng
của tổng thống Pháp
lúc bấy giờ là Georges Pompidou ở điện
Élysées. Nhân được đặt tên là Super Man, cái tên mà
hồi ở Việt Nam mọi người đă đặt
cho hắn. Hóa ra siêu nhân th́ ở ṿm trời nào cũng là
siêu nhân. C̣n con chim chưa định được
đường bay là tôi vẫn là cậu sinh viên nhút nhát và
không chút tự tin, dù là ở phương trời nào, lúc nào
cũng quấn quanh trong chiếc lồng vô h́nh chật chội
của ḿnh. Với những thành tích và
tính cách của Nhân, Nhân mau chóng trở thành lănh tụ của
các phong trào sinh viên, Lúc đầu là anh cả của các môn
thể thao, dần dà, Nhân lại làm luôn lănh tụ chính trị
với nhiều tham vọng. Thời điểm bấy giờ,
cuộc chiến tranh Việt Nam đă đến cao điểm.
Mỹ liên tục ném bom miền Bắc, cuộc chiến
đấu ở miền Nam càng ngày càng nhiều máu lửa.
Sinh viên Việt Nam đi du học hàng ngày nh́n thấy những
đổ nát, những tàn phá, máu xương rơi của
chiến tranh, lại thêm chính quyền miền Bắc và
Chính phủ Cộng ḥa miền Nam Việt Nam tuyên truyền
ở Âu châu rất mạnh, nên đa số đều tham
gia chống chiến tranh, kêu gọi ḥa b́nh với một ư thức
chính trị rất mơ hồ. Lực lượng này rất
mạnh và rất đông đảo. Và tham gia phong trào chống
Mỹ trở thành một cái mốt của người trí
thức. Nhân th́ ngược lại, hắn
làm lănh tụ một nhóm sinh viên ủng hộ chính quyền
Việt Nam Cộng ḥa, chuyên phá đám các cuộc biểu
t́nh và tuần hành của nhóm sinh viên kia. Đụng độ
giữa hai phái xảy ra như cơm bữa. Đúng thời điểm
này th́ chúng tôi nhận hung tin từ Việt Nam. Mẹ tôi và
mẹ Nhân trong một chuyến hành hương về La
Vang, Quảng Trị, trên đường về th́ xe bị
lật v́ trúng ḿn. Mẹ Nhân tan xác tại chỗ, mẹ tôi
được đưa vào bệnh viện Trung
ương Huế, nhưng rồi cũng từ trần ở
đó. Tôi điện thoại cho Nhân, khóc nức nở
trong điện thoại, Nhân chỉ ậm ừ khuyên
lơn tôi. Tôi đ̣i bỏ về Việt Nam ngay, nhưng
Nhân khuyên nhủ, động viên tôi ở lại tiếp tục
học và phải cố học tốt hơn nữa,
đó cũng là một cách
để khỏi làm buồn ḷng mẹ. Tôi nghe lời Nhân,
nhưng ḷng th́ tan nát, dạ rối bời, chẳng thiết
ăn uống gần mấy tuần liền. Riêng Nhân từ
đó càng lao vào những cuộc đấu tranh để ủng
hộ phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa đang ở Paris
để hội đàm t́m cách giải quyết chiến
tranh. Nhân mơ ước ngày trở về sẽ trở
thành một công chức cốt cán của chính quyền miền
Nam, với những đổi thay và cương lĩnh mới.
Hiệp định Paris
được kư kết, Nhân
cay cú v́ bảo rằng chính quyền miền Nam đă bị
Mỹ lừa. Nhân càng hoạt động mạnh hơn,
quyết liệt hơn. Và trong tâm trạng đó, Nhân đă
phạm một sai lầm oan nghiệt, chấm dứt mọi
ước mơ và hoài băo. Cắt đứt tương
lai đang rộng cửa. Trong khu đại học xá,
Nhân được bố trí ở
cùng chung pḥng với Thành, cũng là một du học sinh học
trường Bách Khoa Paris, học sau Nhân một khóa. Thành là
con trai của Chủ tịch Tối cao Pháp viện của
chính quyền miền Nam, nhưng Thành lại là lănh tụ của
phong trào thiên tả ủng hộ Cộng sản. Thành cũng
là một thành viên rất cực đoan của lực
lượng này. Từ lâu, cả hai đă
có nhiều lần tranh căi nhau
dữ dội v́ những quan điểm xung khắc nhau về
cuộc chiến đang xảy ra. Khi hiệp định
Paris vừa có hiệu lực thi hành, Nhân trong cơn bực
tức đă nổ ra cuộc đấu khẩu với
Thành và trong lúc không kềm ḷng được đă bay đến
phóng chân đá vào đầu Thành ngay trong pḥng của hai
người. Thành găy cổ chết ngay lập tức, máu
trào khóe miệng. Nhân bị bắt ngay. Báo chí đưa tin
hàng giờ. Tôi ở Montpellier đọc báo thấy
đăng h́nh của Nhân, nhưng lần này không phải
là khuôn mặt tươi cười, hớn hở như
xưa mà là tấm h́nh Nhân cúi đầu đi giữa
đám cảnh sát, hai tay bị c̣ng, những sợi tóc
xoăn trước trán rũ xuống khuôn mặt nhợt
nhạt không c̣n chút sinh khí. Tôi chợt nhớ nhận định
của chú Lư Hạnh ngày nào và bỗng tin vào số mệnh.
Tôi bay ngay về Paris, nhưng
không được gặp trực tiếp Nhân. Hắn
đang bị cách ly để điều tra. Sau một thời
gian, Nhân bị trục xuất và dẫn độ về
Sài G̣n với cái án giết người. Tôi lại chỉ gặp
được Nhân qua h́nh trên báo đăng h́nh Nhân ở
chân phi cơ lúc bị dẫn độ, tay Nhân vẫn bị
c̣ng và Nhân vẫn lại lọt thỏm giữa đám cảnh
sát với khuôn mặt hớt hăi. Tôi nhận được
thư Nhân lúc trở về Montpellier, Trong thư Nhân dặn
ḍ tôi là không được tin cho ai ở nhà biết việc
này, đồng thời Nhân cũng nhờ tôi là khi nào nhận
được thư Nhân với hai phong b́, tôi phải bỏ
b́ thư ngoài và gởi lại cái thư bên trong về Việt
Nam cho gia đ́nh Nhân, nếu nhận được thư
của ba Nhân, tôi lại gởi về Sài G̣n làm như là
Nhân vẫn đang ở Pháp vậy. Nhân khuyên tôi cố gắng
học cho xong và xin lỗi tôi,
tôi chẳng biết Nhân xin lỗi tôi v́ lí do ǵ. Mỗi lần
đi gởi thơ về cho ba Nhân, tôi cảm thấy ḿnh
đang làm một chuyện tội lỗi tày đ́nh v́
đang đánh lừa ba Nhân, người đang hi vọng
về đứa con thiên tài của ḿnh. Lần nào đi gởi
thư, tôi cũng khóc. Không biết bao giờ tôi mới bỏ
được kiểu thường hay rơi nước
mắt như thế này. Năm 1972 tôi đang học
năm thứ hai Y khoa, tôi bỗng chán nản cùng cực và
ư thức một cách rơ ràng là nghề y không phù hợp với
tôi. Tôi sợ thấy máu chảy. Tôi sợ những khuôn mặt
nhăn nhó, đau đớn v́ bệnh tật của bệnh
nhân. Tôi cũng biết rất rơ ḿnh không đủ phẩm
chất để làm người thầy thuốc. Tôi quá
nhạy cảm trước mọi sự. Tôi chỉ mong
ước ḿnh trở thành họa sĩ, suốt ngày lang
thang vẽ vời, sáng tạo, đùa giỡn với sắc
màu, không phải đối diện với những nỗi
đau bệnh tật, máu me, chết choc của con người như
nghề bác sĩ. Nếu cứ tiếp tục cố nhồi
nhét những kiến thức y
khoa như thế này, chắc chắn tôi sẽ điên mất.
Trước đây tôi chọn
học y v́ ba tôi bắt phải thế, lúc đó tôi vẫn
chưa có ư thức về nghề, về tương lai.
Nhưng bây giờ, qua gần ba năm, tôi tuyệt vọng
v́ thấy ḿnh đang đi lần vào một hố thẳm
và sợ hăi khi nghĩ đến việc suốt đời
phải gắn bó công việc khủng khiếp này. Và rồi
tôi đi đến quyết định cuối cùng.
Đây là quyết định đầu tiên trong đời
do tôi tự quyết. Không biết
tương lai rồi sẽ ra sao, nhưng tôi có chút hài long
v́ đă thoát ra được bế tắc. Ít ra con chim rời
long son cũng đă tự định hướng cho đời
ḿnh. Tôi bỏ trường Y, thi vào L’Ecole supérieure des Beaux –
Arts de Montpellier Aggomération, tức trường Trang trí Mỹ
thuật Montpellier. Học trường này có nghĩa là tôi sẽ
bị mất học bổng ở trường cũ, do vậy
kể từ đó cuộc sống của tôi bấp bênh,
no đói thất thường, làm nhiều nghề để
kiếm cơm và để được học những
thứ ḿnh ưa thích. Nhưng tôi vốn vụng về và hậu
đậu, chẳng làm tốt được chuyện ǵ,
đi đưa báo th́ đưa lộn địa chỉ,
làm bồi rửa chén th́ chuyên làm vỡ bát dĩa, đi giao
sữa th́ đổ sữa lai láng trước cửa nhà của
khách. Bởi từ bé cho đến lớn, tôi chỉ việc
học, ba mẹ tôi không cho tôi làm ǵ ngoài chuyện phải học
thật giỏi. Lối giáo dục đó làm cho tôi vấp
phải thất bại trong bước đầu trong cuộc
đời. Trong các thầy giáo dạy ở trường Mỹ thuật, có
giáo sư Alain Bourdon dạy rất giỏi, thầy
được gọi là họa sư. Thầy rất
thương tôi và biết rất rơ t́nh trạng của tôi,
nên thường t́m cách giúp đỡ. Lúc th́ kẹp ít tiền
trong sách của tôi, khi th́ giỏ thức ăn. Cuối tuần,
Thầy thường đón tôi về căn nhà ở ngoại
ô của Thầy. Ở đó, tôi được ăn no nê
và được Thầy dạy thêm những kiến thức
vô cùng quư báu. Vợ Thầy đă mất cách đây bốn
năm v́ bệnh ung thư, Thầy ở với cô con gái
duy nhất khoảng 18 tuổi tên Monique rất đẹp,
khuôn mặt thánh thiện, sáng bừng như thiên thần. Monique thường nhờ tôi
đệm piano cho cô ấy hát, Monique có một giọng hát
trong trẻo và cao vút rất hợp với nhiều bài Thánh
ca cũng như những bài ca
dân dă. Tôi thường đọc thơ cho nàng nghe, những
bài thơ của Arthur Rimbaud, Paul Verlaine …, Guillaume Apollinaire
và cả thơ Tagore. Monique rất thích bài thơ L'Adieu của
Apollinaire, nhất là khi tôi ngâm bài thơ này bằng giọng
Quảng Nam, mỗi lần nghe xong, nàng bật cười
ngặt nghẽo, cứ giả giọng của tôi rồi
cười khanh khách, nhưng đôi mắt th́ ngập
nước: "J'ai cueilli ce brin de bruyère L'automne est morte souviens-t'en Nous ne nous verrons plus sur terre Odeur du temps Brin de bruyère Et souviens-toi que je t'attends "
(L'Adieu – Apollinaire) Monique rất quư tôi, tuần
nào tôi không về, cô ấy gởi bánh trái cho Thầy Alain
mang lên cho tôi. Biết thân phận ḿnh, lại vẫn cái tánh
nhút nhát, không tin vào ḿnh, nên dù có rất nhiều cảm t́nh với
nàng, tôi vẫn không dám ngỏ, cứ mặc cảm ḿnh
không xứng đáng. Chúng tôi thường đi dạo trên
con đường ṃn của cánh rừng sau nhà, cùng đi
qua đủ bốn mùa. Mùa thu sắc đỏ, lá vàng ngập
lối đi. Mùa hạ bầu trời xanh và mặt nước
hồ gợn sóng lăn tăn. Mùa xuân với những cành
lá biếc, hoa nở tím cả rừng và mùa đông với
những cành trơ trọi, trời lạnh giá, trên cổ
mỗi người quấn chiếc khăn quàng do Monique tự
tay đan. Trong những buổi cùng lang thang, hái hoa, nghe tiếng
chim líu lo, chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện
trên đời. Nhưng cũng có khi trên đường về,
hai đứa cứ im lặng suốt cả con đường
dài, nhưng vẫn ngập tràn một thứ hạnh phúc
khó diễn tả nổi. T́nh yêu đến nhẹ nhàng,
trong như giọt sương, tôi không dám động mạnh,
chỉ sợ nó vỡ tan. Và ánh mắt nh́n nhau, nụ
cười trao nhau như những lời ước hẹn,
đổi trao diễn ra trong im lặng. Mỗi khi đến nhà của Thầy
Alain, được ngồi ăn chung với hai bố con
Thầy, được nh́n khuôn mặt đẹp tựa
thiên sứ của Monique, nghe tiếng hát trong veo của
nàng, tôi cảm thấy cuộc đời thật
tươi đẹp và mong ước ḿnh cứ được măi
như thế này… Nhưng số phận lại
giáng xuống đời, khi tôi vừa xong năm thứ hai
đang kỳ nghỉ hè th́ tai
họa ập đến gia đ́nh Thầy Alain. Trong chuyến
đi về Paris của hè năm ấy, họ đă bị
tai nạn giao thông. Thầy Alain chết ngay trên volant, Monique
bị thương nặng, được chở vào bệnh
viện, một tuần sau th́ mất. Tôi bay về Paris ngay
khi được tin và chăm sóc Monique suốt một tuần
nàng thoi thóp, mê man trên giường bệnh, suốt ngày
tôi quên ăn uống, chỉ
ngồi nắm trong tay bàn tay bé nhỏ lạnh giá của Monique, chờ phép lạ. Đến
hôm cuối cùng, Monique mở mắt nh́n tôi rất lâu, hai
ḍng nước mắt chảy dài trên má nàng, mặt tôi cũng
đầm đ́a nước mắt. Môi nàng mấp máy: Je
t’aime… Je t’aime… và bàn tay rời khỏi tay tôi. Phép lạ
đă không đến. Chúa cũng đă quay mặt đi
trước nỗi đau của thiên thần. Tôi gần
như không kêu lên được tiếng gọi y tá cấp
cứu, cổ họng tôi đông cứng và tôi đứng
chôn chân gần mấy tiếng đồng hồ trong niềm
tuyệt vọng như bức tượng đá bên giường.
Tôi không tin đó là sự thật. Suốt cuộc đời,
tôi không bao giờ quên được ánh mắt và câu nói cuối
cùng đó. Câu nói của Monique như vết khắc trong tim
tôi, không phai. Tôi đau đớn tột
cùng trước cái chết của cha con Thầy Alain,
người tôi xem như
người cha thứ hai của ḿnh. Và Monique, mối t́nh
đầu của tôi, mối t́nh câm chưa dám ngỏ của
tôi. Tôi có cảm tưởng ḿnh đă bị rút hết tất
cả sinh lực. Tôi mất ngủ, lang thang như kẻ
điên suốt mấy tháng dài. Tôi chẳng c̣n thiết tha
ǵ chuyện học hành và tương lai. Thiên thần Monique của tôi hiện
ra như ánh chớp, lóe sáng đời tôi một khoảnh
khắc rồi bay về trời. Nàng như một thứ
định mệnh làm thay đổi ư nghĩ của tôi về cuộc sống.
Cái chết của mẹ tôi, mẹ Nhân, của Thầy
Alain, của Monique khiến tôi thấy cuộc sống này
chỉ là một ảo ảnh, có đó rồi mất
đó. Hiện hữu rồi tan vào hư vô. Sống chết
là một ranh giới quá mỏng manh. Cuộc sống chỉ
là một ánh chớp. Tôi đóng cửa suốt ngày và cứ
nghĩ về lẽ tử sinh. Và rồi số phận lại
đổi thay, tôi ngộ ra rằng những tham vọng, những ước
mơ, những hoài băo, những cố gắng cuối cùng
rồi cũng sẽ được chấm hết bằng
một cái chết do muôn ngàn bất trắc của đời
sống. Thế th́ ham danh vọng để làm ǵ, mải
mê theo những ảo vọng để làm ǵ? Tất cả thật ra rồi
cũng chỉ là ảo ảnh. Và tôi buông tay, thả cuộc
đời ḿnh cho những con sóng của số phận. Tôi
bỏ lại tất cả và trở về Việt Nam ******** 3. Tôi không dám về quê, cố bám lấy Sài G̣n. Tôi t́m gặp
Nhân, hai đứa thuê chung căn pḥng ở khu Trương
Minh Giảng. Tôi và Nhân bàn cách để tránh những người
quen biết. Tôi để tóc, râu dài thậm thượt,
Nhân cũng thế. Hai đứa
thường mang đôi kính đen, ban đêm th́ mang kính
đổi màu. Hàng tháng, tôi và
Nhân viết thư gởi qua Pháp cho một người bạn,
anh này lại bỏ phong b́ ngoài, gởi tiếp về Việt
Nam cho ba tôi và ba Nhân. Và nhận
những lá thư từ gia đ́nh gởi qua chặng
Đà Nẵng – Pháp – Sài G̣n. Chúng tôi lại tiếp tục
lừa dối và loay hoay trong lừa dối tự ḿnh bày
ra. Lúc Nhân vừa bị dẫn độ về Sài G̣n, ông chủ
tịch Tối cao Pháp viện, tức là bố của
Thành, người bị Nhân giết chết bằng cú
đá oan nghiệt, đang chuẩn bị ra tranh cử dân
biểu quốc hội. Không muốn bị báo chí phanh phui
là có con theo Cộng Sản bị giết chết nên ông này
t́m mọi cách ỉm vụ đó đi. Nhân chỉ bị
đưa ra ṭa bí mật và kết luận là gây án ngộ
sát trong t́nh trạng thần kinh không b́nh thường, nên
được trả tự do sau hai tháng giam giữ. Được một người
bạn du học Mỹ về đang làm Tổng cục
trưởng, Nhân được bố trí làm việc ở
Tổng cục gia cư, chuyên về xây dựng. Khi tôi về,
Nhân lại giới thiệu tôi vào làm với nhiệm vụ
họa viên vẽ họa đồ. Để trốn khỏi
đi lính, Nhân mua cho tôi một cái giấy hoăn dịch v́ lí
do sức khỏe và hắn th́ hoăn dịch v́ gia cảnh. Cả
hai đều là giấy giả. Đi làm lương cũng
kha khá đủ sống, nhưng hai thằng sống
như hai thằng buôn thuốc phiện lậu, lúc nào cũng
lén lén lút lút, cứ sợ gặp người quen với
gia đ́nh và cũng phải trốn tránh bọn cảnh sát
ch́m nổi đầy mọi ngơ ngách. Cả hai trường
hợp nếu bị phát giác cũng đều đưa
đến kết quả bi thảm cả. Thế mà tôi cũng
phiêu lưu dám ghi danh học tiếp ở Đại học
Văn khoa. Vừa làm vừa học, dù ít khi có mặt ở
giảng đường. Từ
đó, tôi cảm thấy ḿnh an phận, chấp nhận số
phận do ḿnh chọn lựa. Nhưng h́nh như Nhân không nghĩ giống tôi. Có rất nhiều khi
Nhân không cười, không nói, lầm ĺ suốt cả tuần
lễ, có lúc lại uống rượu đập bàn,
đập vỡ li chén, uống say mèm và khóc tức tưởi.
Những lúc như vậy, tôi
chỉ biết ngồi im v́ ánh mắt của hắn
lúc đó trông như ánh mắt của quỷ dữ, như con thú bị dồn
đến đường cùng. Có một điều lạ
nữa là Nhân không bao giờ nhắc đến Dạ Lan
lúc tỉnh táo, mặc dù tôi biết Nhân nhớ thương nàng nhiều lắm.
Nhưng cứ đến khi say, hắn khóc và réo măi tên Dạ
Lan. Khi tỉnh, nếu tôi vô t́nh nhắc đến tên nàng,
Nhân quắc mắt lên rất dữ tợn, riết rồi
tôi chả bao giờ dám nhắc đến cái tên đó nữa. Hàng tuần, cứ mỗi chiều
thứ bảy khi đi làm về, Nhân lại mua một bó
hoa lớn, vào nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, ngồi
trước mộ Thành đến tối mịt mới về.
Tôi hiểu tâm trạng của Nhân nên cũng chẳng có ư kiến,
nhưng tôi tự nghĩ, một cú đá đă giết chết
cuộc đời của hai người: cái chết tức
thời của Thành và cái chết dai dẳng của Nhân. Cú
đá đă làm cho cuộc đời của Nhân qua một
ngă rẽ để đi tới hố sâu thăm thẳm. Chúng tôi sống b́nh lặng chẳng
có ǵ đáng kể như thế cho đến biến cố
30 tháng 4 năm 1975. ******** 4. Những tin tức chiến sự
dồn dập, Tây nguyên thất thủ, Huế mất,
Đà Nẵng mất. Hàng trăm ngàn người trôi dạt
trên biển từ miền Trung, lớp lớp người
trên những con đường đầy xác chết. Cuộc
chiến đi vào những giây phút cuối cùng. Sài g̣n rung lên
từng phút. Hai trái bom CBU nổ trên tỉnh lỵ Long khánh.
Thành phố nhốn nháo. Thành phố lo âu. Thành phố chuẩn
bị cuộc hỗn loạn đang chuẩn bị ập
tới. Tôi và Nhân vẫn b́nh chân
như vại. Sáng sáng vẫn ngồi cà phê chờ xe đến rước đi
làm. Thiên hạ bàn tán nhiều đến chuyện ở,
chuyện đi. Hai thằng không quan tâm, Cũng đúng thôi,
v́ chúng tôi từng ở bên đó về, đă thấm những
nỗi nhục nhằn, đă chấp nhận nhát búa của
số phận. Không lẽ bây giờ lại trở lại
tiếp tục chui đầu vào con đường cũ.
Những ngày cuối cùng của tháng tư, công sở
đóng cửa, hai đứa ngồi nh́n thiên hạ xôn xao
ḷng dửng dưng. Nhưng đến hôm 29.4 th́ bỗng
nhiên cả hai thấy sợ trước những lời
đồn đoán. Nửa đêm hai đứa
vùng dậy, đem hết giấy tờ, h́nh ảnh liên
quan đến những năm tháng du học ở Pháp ra
đốt. Nhân có cả mấy thùng lớn loại này, những
h́nh ảnh thời Nhân c̣n được gọi là Super Man
trên đất Pháp. Ngọn lửa
bập bùng suốt đêm. Tôi chỉ giữ lại mấy
tấm h́nh tôi chụp chung với Thầy Alain và Monique, mấy
bức tranh tôi vẽ ở trường Mỹ thuật tôi
đă chọn lựa để đem về Việt Nam.
Đó là những kỷ vật tôi không thể để
mất được, dù tôi hiểu có thể sẽ
đưa đến hậu quả không may. Sài G̣n sau đó là một Sài
G̣n khác. Những lều quán bỗng dưng mọc lên trên những
con phố. Chủ quán là chị cave, cũng có thể là vợ
của một anh sĩ quan nào đó, cũng có thể là một
nghệ sĩ, một nhà báo không c̣n được sử dụng.
Thiên hạ nháo nhào đổ ra đường kiếm sống,
cuộc sống bị xáo trộn ghê gớm, chẳng c̣n
phân biệt được đâu là ông, đâu là thằng của
những con người cũ.
Chúng tôi suốt ngày lê la hàng
quán, đấu láo quên thời gian mà không biết rồi
ngày mai sẽ ra sao. Có người rủ mở quán, có đứa
kêu đi bán đủ thứ thứ tàn dư của xă hội
cũ lọc lừa mấy chàng bộ đội khờ khạo,
có thằng rủ đi bán thuốc Tây. Có đám rủ rê
vượt biên. Có người nhỏ to tính chuyện tổ
chức phản động. Chúng tôi phớt lờ tất
cả. Cứ bán dần những thứ c̣n lại trong mớ
đồ đạc sống qua ngày. Sống lây lất mấy
tháng như vậy th́ chúng tôi bắt
đầu bế tắc. Công việc không có, áo quần,
giày dép, mắt kính, sách vở, túi xách, va li lần lượt
lên đường. Đùng một cái, đổi tiền lần
thứ nhất (2.9.1975), chúng tôi chẳng có xu nào để
đổi. Bắt đầu những ngày khốn khó. Có
nhiều bữa chỉ c̣n đủ tiền mua một lon
gạo và một quả trứng. Hai thằng luộc rồi
chia trứng làm bốn mảnh, tưới nhiều nước
mắm, dành ăn cho hai bữa. Có ngày chỉ c̣n mấy miếng
khoai ḿ mua được dọc đường…. Rồi
không ai bảo ai, cả hai bắt đầu tản ra, mỗi
thằng tự đi, tự kiếm ăn, tối về
ngủ. Nhân bỗng cọc cằn,
dễ nổi nóng, tối ngủ cứ đá vào tường
suốt đêm… Rồi tới một ngày, chúng tôi chia tay
nhau, Nhân bỏ đi mất hút…
Tôi bắt đầu đói dữ,
có ngày chỉ được
trái chuối, có hôm chỉ được củ khoai.
Người tôi xanh mướt, xuống sức dữ dội,
chỉ c̣n 39 ki lô. Tôi đành phải chấp nhận vào làm
bưng bê trong quán cà phê ven đường của vợ chồng
người bạn họa sĩ, kiếm cơm ăn.
Nhưng cũng chỉ được mấy tháng, hai vợ
chồng người bạn bị bắt v́ có dính líu chính
trị sao đó chẳng biết.
Tôi lại trôi như bèo. Bèo nhèo. Tôi cũng chẳng có chút
tin tức ǵ về Nhân, không biết hắn sống ra sao.
Mù tăm. Tôi đă đói tới ngày thứ
ba, ba ngày chỉ có củ khoai lang và
li nước đường uống lậu ở
quán con Sáu ốm. Người mệt lả. Thèm đủ
thứ. Thấy ǵ cũng muốn giật bỏ vào mồm.
Mệt. Người cứ như đang say sóng.Nhưng cũng
cứ phải ra đường, v́ ra đường mới
hi vọng có miếng ăn. Đói, nhưng cũng quần
áo chỉnh tề, giày vớ đầy đủ, nghiêm chỉnh
ra đường như một kẻ nhàn du. Ra đường
đứng lơ ngơ, đi lơ ngơ không mục
đích. Và trong khi lớ ngớ như thế, tôi phát hiện
phía bên đống rác ở chân cầu Trương Minh Gỉảng
có chiếc xe đạp ai bỏ đó. Tôi đứng gần
hai tiếng đồng hồ phía bên này đường, không thấy ai
đến lấy. Tôi chờ thêm thời gian nữa, rồi
băng qua đường. Chỉ việc tỉnh queo dắt
xe đi, làm như xe của ḿnh là xong. Bán đi sống cũng
được năm mười bữa. Tôi đă chạm
tay vào ghi đông xe. Nhưng rồi rụt tay lại như
phỏng lửa. H́nh như có người nh́n tôi. H́nh như mọi người nh́n
tôi. H́nh như mọi người đang cùng chỉ tay vào
tôi và đồng thanh: thằng ăn cắp.. thằng
ăn cắp… Trong đầu tôi cũng vang lên điệp
khúc đó: thằng ăn cắp.. thằng ăn cắp… Tôi lại lủi vào chợ.
Những món hàng bánh trái lèo tèo nhưng hấp dẫn tôi v́
cơn đói đang hành hạ.
Có một chị đang bế con đi qua. Đứa bé
khóc ngặt nghẽo đ̣i ăn quà. Chị ngồi xuống
gánh chuối chiên. Những miếng chuối chiên vàng quyến
rũ. Nước miếng chảy ra đầy miệng
tôi. Tôi nghe có tiếng ḍn rụm trong hàm răng, vị ng̣n
ngọt, beo béo tỏa trên đầu lưỡi. Thằng
bé vẫn khóc. Người đàn bà đứng lên, đứa
bé tay cầm miếng bánh, miệng vẫn khóc, người
vùng vằng. Tôi chắc chắn trong đầu là thằng
bé sẽ đánh rơi miếng bánh. Tôi lặng lẽ
đi theo. Thằng bé làm rơi bánh thật. Tôi cúi người
lẹ như sóc, lượm nhanh và tạt ngay vào con hẻm
nhỏ. Miếng bánh tưởng sẽ ngon vô cùng v́ cơn
đói, nhưng vừa bỏ bánh vào miệng, hai ḍng nước
mắt chảy dài trên mặt tôi, những miếng bánh vỡ
như những mảnh vỡ của thủy tinh xé nát buồng
ngực tôi. Tôi đau đớn và nhục
nhă…. Tráng là người bạn học
chung ở Văn khoa, hắn là chuyên gia đạp xích lô.
Tôi t́m tới hắn, nhờ bảo lănh thuê một chiếc
ở hẻm Trần Quang Diệu. Tôi chưa chạy xe xích
lô lần nào, nhưng nghĩ Tráng chạy được
th́ tôi cũng sẽ chạy được. Nghĩ
đơn giản ai dè trèo lên mới thấy không phải dễ
ăn. Tập vài ṿng th́ cũng tạm chạy được.
Tráng bảo tôi chạy về Trần Quốc Toản, chỗ
chợ cá sẽ có mối. Đúng là vậy, một bà mập
béo và đôi thùng đầy nhóc cá lóc thụê tôi chở về
chợ Trương Minh Gỉang. Chỉ chạy đến ngă sáu Lê Văn
Duyệt là tôi đă đuối hơi. Chân bắt đầu
nặng, thở hổn hển.
Tôi ráng đạp, nghĩ rằng chỉ qua tới Yên
Đỗ, quẹo, qua được cầu là xong. Sẽ
có bữa ăn cho trưa nay. Nhưng tôi không qua nổi cầu, ba bánh xe
như có ai gh́ lại, không lên nổi dốc, dù tôi đă gồng
hết đôi chân. Chiếc xe như muốn tuột xuống,
tuột xuống. Tôi không nhảy được, hai chân cố
giữ bàn đạp, cả người cố gồng
lên. Nhưng chiếc xe vẫn từ từ tuột. Tôi
không chịu nổi nữa, ngực tôi nặng như
đeo ch́, hơi thở đứt quăng. Phen này th́ chắc
chết. Bà khách thấy xe tuột dần th́ la lên chói lói, nhảy
xuống cũng không xong v́ kẹt hai thùng cá. Tôi buông xuôi, nhắm
mắt chờ xe lật ngửa và thế là xong một
đời. Nhưng, h́nh như có một sức mạnh thần
kỳ, chiếc xe khựng lại một lát và đi
lên như có ai đẩy. Tôi mở mắt nh́n lui th́ thấy
Nhân đang g̣ lưng đẩy xe từ phía sau, chiếc xe
lên dốc rồi đổ dốc, an toàn đến chợ.
Tôi gặp lại Nhân như thế đó, và Nhân đă cứu
tôi lần nữa như đă cứu tôi một lần lúc
thằng Hồ Lê bắt tôi chui qua háng thuở c̣n
đi học…. Ngồi ở quán bún ngay góc
Trương Minh Giảng và Trần Quang Diệu, tôi ăn
ngon lành hai tô bún thịt nướng đầy rau xanh. Nhân
không nói ǵ, ngồi nh́n tôi với đôi mắt ngập
nước mắt thương xót. Nhưng khi tôi định
gọi thêm tô thứ ba th́ Nhân ngăn lại: - Cậu
đă không chết v́ đói th́ đừng nên để chết
v́ no. Cứ từ từ. Sẽ
không phải đói nữa đâu. Nhân rút từ túi ra một cọc
tiền lớn, trả tiền bún xong, Nhân ngắt đôi cọc
tiền, đưa tôi một phần và bảo: - Cậu giữ
số tiền này mà sống. Người ta đang chuẩn
bị cho các trường đại học hoạt động
trở lại rồi. Cậu nên tiếp tục học hi
vọng kiếm được một việc làm trong chế
độ mới. Cậu ốm yếu lại quá thật
thà đến hóa ngu, không làm buôn bán lọc lừa, không làm
phu xe, bốc vác được đâu! - Nhưng tiền đâu cậu có
nhiều thế. Mấy tháng nay cậu ở đâu, làm
ǵ??? - Từ từ rồi sẽ
biết. Ḿnh sẽ kể cho cậu nghe. Xong rồi ḿnh sẽ
về Đà Nẵng. Chốn
này không c̣n là chỗ dung thân của ḿnh nữa rồi.
Đă đến lúc ḿnh phải
chấm dứt mọi sự giả dối. Ḿnh sẽ nói
hết sự thật cho ba ḿnh. Chắc chắn sự thật
sẽ làm cho ông cụ đau đớn, nhưng thế sẽ
tốt hơn, cho ḿnh và cho cả
ông cụ. Im lặng một
lát, lấm lét nh́n quanh, Nhân ghé miệng sát tai tôi, thầm th́: Ḿnh đang bị truy nă. ******* 5. Mấy tháng trước, chúng
tôi chia tay nhau v́ cả hai đang lâm vào cảnh đói ăn
thê thảm, Nhân bỏ đi và lang thang vào khu Chợ Lớn.
Nhân kể là vào đó hi vọng sẽ không gặp ai quen,
đồng thời mấy ông Ba Tàu chắc cũng có đời
sống, sinh hoạt khá hơn người Việt, dễ
kiếm cơm hơn. Nhưng suốt một ngày từ chợ
Ḥa B́nh, rồi qua chợ Kim Biên đến chợ B́nh Tây vẫn
chưa kiếm được mối nào nhờ giúp việc.
Nhân mở miệng đề nghị chủ hàng để
được bốc vác th́ chủ hàng nh́n Nhân đầy
nghi ngờ. Bởi chàng ta vẫn
c̣n bỏ áo trong quần, nai nịt đầy đủ,
chân c̣n mang đôi giày da tuy
đă cũ sờn, lại thêm cắp kính đen che đôi
mắt sùm sụp. Ai lại tin
người có vẻ trí thức như vậy chịu
làm chuyện của người lao động. Chắc có
mục đích ǵ đây. Nghe ngóng? Theo dơi?... Nghi là phải.
Mà lúc này xă hội mới h́nh
thành một lối sợ mơ hồ và đầy nghi ngại
với tất cả mọi người. Chẳng ai tin ai.
Cũng may vỉa hè, quán sá, phố phường cũng không thiếu những anh chàng có vẻ
ngoài như vậy lê bước với khuôn mặt chán
chường và tuyệt vọng. Cho nên Nhân cũng không bị
để ư lắm. Trời tối, đói meo,
Nhân lê gót đến ghế
đá cạnh tượng ông chủ họ Quách, người lập ra ngôi chợ
này. Bức tượng đă bị đem đi đâu mất,
chỉ c̣n cái bệ tượng chơ vơ. Có ba người
thanh niên đang ngồi nhậu trên đó. Họ ngồi quanh, ở giữa có dĩa
mồi là con gà luộc da vàng óng. Cuộc nhậu h́nh như
mới bắt đầu, li rượu mới chuẩn bị
xoay tua. Ngôi chợ vắng vẻ,
ánh đèn vàng vọt và âm thanh chỉ là tiếng chổi
quét lẹt quẹt của người phu quét chợ. Nhân
ngồi ở ghế đá nh́n lên, con gà hấp dẫn quá.
Hắn nuốt nước bọt liên tục. Đă mấy
lần quay đi và cũng đă nhiều lần nh́n lại. Con gà vẫn bóng lưỡng
khêu gợi tênh hênh giữa chiếu nhậu… Bỗng nhiên Nhân t́ tay vào ghế
đá, bắn người lên. Đôi chân vừa chạm
đất quét ngang, con gà bay lên nằm gọn trong tay Nhân.
Ba gă thanh niên quá bất ngờ, không kịp một phản ứng
nào. Nhân ngoạm một miếng vào đùi gà, nhai nhồm
nhoàm. Ba gă thanh niên đă định thần, cùng hét lớn xông vào đứa đấm,
đứa đá, đứa lên gối. Nhân vừa nhai, vừa
cầm chắc con gà, xoay nhiều ṿng, hai chân đạp hai
gă gần nhất đang chồm tới, tay c̣n lại đấm vào ngực
gă kia. Ba tên bị bắn lui, kinh hoàng. Ba gă lại tiếp tục hè nhau tấn công
thêm mấy bận nữa, nhưng chẳng làm ǵ được
Nhân. Nhân vừa nhai vừa né đ̣n, rồi ra đ̣n
nhưng chỉ mấy miếng đấm đá không nhằm chỗ hiểm. Cuối
cùng cả bọn dừng tay. Gă râu xồm có vẻ đầu đàn hất hàm nhưng trong giọng
nói có chút vị nể: - Ông bạn ở đâu mà dám đến
đây cướp gà của tụi này? Nhân dừng nhai: - Tôi đói quá,
định xin mấy người anh em chút ǵ bỏ bụng,
nhưng biết chắc là khó nên đành cướp vậy.
Có ǵ các anh thứ lỗi. - Ông
ở băng nào mà ngón nghề cũng oách quá vậy? - Chẳng có băng nào cả, thất
nghiệp lang thang thôi…. Lời qua tiếng lại một
hồi, hiểu được nhau. Giang hồ vốn trọng
người tài, nên rồi cả
bọn ngồi chung chiếu, nhậu suốt đêm thâu. Từ
đó, Nhân nhập băng, lần hồi nhờ tài vơ nghệ
cộng với trí thông minh, hắn trở thành đại
ca của băng chợ B́nh Tây, từ từ lan ra một
vùng khá rộng của khu Chợ Lớn, dưới trướng
có vài chục đàn em, cùng nhau hành hiệp. Lúc đầu chỉ
quanh quẩn công việc ở các chợ, lần lần nhảy
vào bán mua, rồi buôn lậu
đường dài. Càng ngày càng lấn sâu vào chốn giang hồ
phạm pháp, tên tuổi của
trùm Nhân nổi tiếng khắp chốn giang hồ là một
đại ca mưu mô tuyệt diệu mà vơ công lại vô
cùng thâm hậu, được đàn em vô cùng quư mến,
tôn sùng. Tiền bạc vô ào ào. Nhớ bạn đang nghèo
nhưng mặc cảm đang là thằng tướng
cướp nên chẳng dám về t́m lại. Giang hồ có lănh địa
riêng, bán buôn cũng chia từng khu vực, các băng nhóm không được xâm phạm,
vi phạm là sẽ có máu đổ ngay. Nhưng không lấn
sân nhau th́ không tồn tại và phát triển được,
nên đụng độ nhau là chuyện không thể tránh.
Sau mấy tháng làm đại ca, một cuộc tranh chấp lănh thổ và mối lái giữa
băng của Nhân và băng ALũ xảy ra. Đây sẽ
là trận lớn, cả hai bên trang bị mă tấu, ống
nước inox, dao bầu, kiếm nhọn. Một trận
huyết chiến, một mất một c̣n, máu me tràn ngập
chắc chắn sẽ không tránh khỏi. A Lũ là một
đại ca máu mặt ở vùng này, trước tháng 4.75
là trùm khu Chợ Lớn – Phú Lâm, bị Ban bài trừ du
đăng của cảnh sát Sài G̣n bắt giam ở Chí Ḥa,
được thoát ra trưa 30. Hắn ngứa mắt
trước ảnh hưởng càng ngày càng lan rộng của
băng thằng Nhân, nên quyết đấu. Nhân không muốn cuộc chiến
diễn ra ồn ào, công an xuất hiện là điều bất
lợi cho bản thân hắn và lũ đàn em, nên đến
gần giờ máu đổ, Nhân đề nghị đấu
tay đôi với A Lũ. Bên nào thắng sẽ được
trọn quyền hoạt động toàn khu, bên thất bại
sẽ giải tán hoặc gộp chung thành đàn em của
băng thắng. A Lũ đồng ư ngay, bởi hắn là
một tay vơ sư có hạng của vơ Thiếu Lâm. Hắn
nh́n thân h́nh hơi thấp và dáng thư sinh của Nhân nên có
vẻ xem thường. Cuộc đấu tay đôi sẽ
diễn ra trong nghĩa địa nhị t́ khu cây da xà lúc nửa
đêm. Hai thằng đúng là kỳ phùng địch thủ, bất
phân thắng bại. Hơn nữa, Nhân cố tránh không sử
dụng đ̣n chí mạng, chỉ muốn làm cho A Lũ và
đám đàn em hắn tâm phục khẩu phục, nên cuộc
chiến kéo dài hơn tiếng đồng hồ. Hai bên ra lệnh không được
ḥ reo, tránh sự chú ư. A Lũ đúng là một tay vơ lâm
đầy tài nghệ. Hắn tránh được nhiều
đ̣n của Nhân và cũng phản đ̣n rất dũng
mănh. Cuối cùng, không muốn kéo dài cuộc chiến, Nhân phải
sử dụng đến ngón đ̣n giết người rất
nguy hiểm. Hắn bấm ḿnh bay đến bức tường
sau lưng A Lũ, chạy như gió trên tường rồi
bắn ngược trở lại, tung cước ngay
đầu A Lũ, A Lũ gục xuống như thân chuối
bị đốn. Đấu
trường xôn xao. Cùng lúc ấy có tiếng chân chạy sầm
sập, tiếng c̣i thổi và bóng nhiều công an xuất hiện
ở cổng nghĩa trang. Cả bọn tháo chạy. A Lũ cố gượng
dậy nhưng không nhấc ḿnh lên được. Đă chạy
đi rồi, quay nh́n lại thấy A Lũ quằn quại
không gượng dậy nổi, Nhân quay lại cơng A Lũ
trên vai và cố thoát khỏi ṿng vây. Nhưng không kịp.
Ba công an kềm sát chân anh, ôm chặt
lấy Nhân, quật xuống và tra c̣ng . . . Nhân bị giam ở đồn
hai ngày, hai tay bị c̣ng vào song cửa sổ, chờ xe chở về Đắc Nông,
nơi tập trung đám giang hồ bị bắt cải tạo
lao động. Bọn đàn em bắn tin sẽ t́m cách giải
cứu đại ca, đồng thời báo cho biết A Lũ
chỉ bị trọng thương, đang nằm ở bệnh
viện, công an canh giữ sát sao, nhưng liệt nửa
người dặt dẹo. Thời đó chẳng có ṭa án,
cũng chẳng xét hỏi, lập hồ sơ, cứ thế
mà đi thẳng vào trại, chẳng biết ngày về. Nhân nghĩ chỉ có giải
pháp duy nhất là phải trốn thôi, không thể giam ḿnh
trong trại không lối thoát như thế được.
Nửa đêm đó, chờ mọi người ngủ say,
Nhân lấy hết sức b́nh sinh, bẻ song cửa sổ,
hai tay c̣n dính c̣ng, trốn thoát. Anh chạy về sào huyệt
báo tin cho đàn em, từ biệt
chúng, chia chác tiền bạc và sáng hôm sau đi t́m tôi. Và chúng
tôi đă gặp nhau ở dốc chân cầu Trương
Minh Gỉang, khi tôi chuẩn bị tuột dốc. Tôi hỏi Nhân: - Cậu mua vé
tàu xe ǵ chưa? Nhân bảo: -
Ḿnh tránh mua vé, sợ bị lộ. Ḿnh sẽ đi bộ về
Đà Nẵng, gặp đâu xin đi đó, được
đoạn nào hay đoạn đó, chứ đi tàu dễ
bị xét hỏi lắm, chắc là khó thoát. Và chúng tôi chia tay nhau. Lúc ấy là cuối năm
1976. ******* 6. Tôi được ghi tên
đi học lại, khóa chúng tôi được nhập
chung với sinh viên Sư phạm thành trường Đại
học Sư Phạm Thành phố. Nhờ số tiền
Nhân đưa, tôi sống được thời gian dài, dù
cũng chỉ tạm đủ ngày hai bữa cơm rau ở
căn tin và qua lần đổi tiền lần thứ hai
1978. Cuộc sống trôi đi,
học hành rồi ra trường, tôi ra trường
cũng gặp chút khó khăn lúc phân công tác. Lí lịch xấu
quá, đen thui. Con công chức cao cấp chế độ cũ. Bản thân thiếu phấn đấu.
Nhưng rồi trời thương, được vài
người giúp đỡ, tôi
được phân công về dạy ở một trường
cấp 3 heo hút ở Củ chi.
Cuộc sống cũng được cho là ổn.
Tôi cố t́m cách liên lạc với gia đ́nh, nhưng
thư gởi đi mà không có hồi âm. Tôi cũng chẳng
nhận được lá thư
nào từ Pháp gởi về. Cũng chẳng nhận
được chút tin tức nào của Nhân. Tất cả im ĺm như nấm
mộ. Đầu năm 1978, tôi nhận
được một lá thư từ nước Pháp. Lá
thư của em gái tôi, cô em duy nhất mà khi tôi rời Việt
Nam, em mới 14 tuổi. Em gởi từ Mỹ qua địa
chỉ cũ của tôi ở Montpellier từ cuối
năm 1975, nay tôi mới nhận
được. Trong thư em báo tin đă di tản qua Mỹ
từ tháng 4.1975, hiện ở New Hampshire, miền đông
nước Mỹ đồng thời cho biết ba tôi
đang bị học tập cải
tạo tại Hàm Tân. Tôi chạy ra Hàm Tân th́ được
tin ba tôi đă bị chuyển
ra Bắc, đang ở Hà Nam Ninh. Mùa hè năm 1978 tôi ra bắc, lên Hà Nam Ninh thăm nuôi ba nhưng
không được gặp mặt, đến năm sau ra
lần nữa th́ được tin ba tôi đă chết
trong trại. Trên đường từ bắc xuôi nam, tôi dự định ghé Đà
Nẵng thắp nhang cho mẹ th́ lại biết rằng
nghĩa trang Nam Ô, nơi mẹ
tôi nằm đă bị qui hoạch, mộ mẹ tôi không biết
t́m đâu? Như vậy, từ khi rời Đà Nẵng
năm 1968, tôi chưa trở lại chốn này lần nào. Bởi chẳng c̣n ǵ
để tôi trở lại, cha mất chưa t́m được
xác ở chốn xa xôi. Mộ
mẹ bị san bằng không dấu vết. Nhà cửa không
c̣n. Trở lại chỉ thêm
buồn đau và hờn tủi.
Tôi lập gia đ́nh, sinh con.
Quẩn quanh với cuộc sống từ những khó
khăn và thiếu thốn. Cuộc sống cứ thế
trôi đi. Những kỷ niệm của ngày xưa lần
hồi phôi pha. Phải tập quên để sống. Phải
cứ hướng tới phía trước để tồn tại. Cho đến
2010, khi tôi tṛn 60 tuổi, về hưu, con cái cũng đă lớn, đă yên bề gia
thất. Nhiều đêm không ngủ được, tuổi
mới chớm già mà cứ nhớ đến quá khứ
đến quắt quay. Tôi nhớ Nhân, nhớ đến những
năm tháng đă qua đi và sẽ không c̣n trở lại.
Không biết bây giờ Nhân sống ra sao, c̣n ở Việt
Nam hay đă trôi dạt xứ nào. Thời gian quá dài, quá nhiều
đổi thay, quá nhiều bất trắc. Không biết những
nơi chốn xưa có c̣n như cũ nữa không? Biết
bao là h́nh ảnh, biết bao là câu hỏi cứ quẩn
quanh….Tôi mua vé bay về Đà Nẵng, t́m lại kỷ niệm
xưa, đồng thời t́m lại người bạn
thân yêu đă một thời gắn bó. Thành phố không c̣n như cũ nữa, nhiều đổi
thay. Những dấu vết kỷ niệm đă bị mất dấu.
Tôi ngu ngơ giữa thành phố xa lạ. Chẳng gặp
người quen, chẳng t́m ra cảnh cũ. Tôi lang thang quẩn quanh ở chợ Cồn, nơi ngă tư. Chỗ
đó hồi xưa là
nơi thường ngày
tôi qua. Ngày xưa, bên này là cây xăng, bên kia là cư xá
Đoàn Kết của quân đội, bên kia đường
là nhà sách Văn Hóa, nơi tôi thường mua sách. Xuống
một chút là cà phê Xướng, nơi bán những ly cà phê
đượm hương beurre Bretel và bánh ḿ thịt
thơm nức mũi ba tôi thường ăn mỗi sáng.
Đi qua đường rầy của đường
Hùng Vương, có xưởng vẽ của họa sĩ
Trần Viết Hậu, người họa sĩ già mà ngày
nào đi học ngang qua, tôi cũng dừng chân đứng
lại một chút để nh́n ông ta vẽ, tôi mê hội họa
từ những nét vẽ của ông. Tất cả biến
mất, chẳng c̣n dấu vết. Tôi đi loanh quanh cả
chục lần chốn cũ mà không t́m thấy chút h́nh ảnh nào sót lại. Ở góc phố, tôi
dừng lại mua gói thuốc. Ông già bán thuốc tóc bạc chải mượt có
khuôn mặt rất quen, quen lắm, nhưng tôi vẫn
chưa nhớ ra được. Tôi băng qua đường,
đốt thuốc nh́n qua. Ông già đốt thuốc hút,
hai ngón tay cầm điếu thuốc hững hờ, điệu
nghệ. Nh́n h́nh ảnh đó, tự nhiên gợi tôi nhớ
đến một người, tôi băng nhanh qua đường,
ôm lấy vai người bán
thuốc: Thầy Thanh, Thầy Thanh, phải Thầy không?
Thầy nhớ con không? Thầy Thanh ngỡ ngàng nh́n
tôi, ngờ ngợ: - Phải, tôi là Thanh đây, trước
đây tôi có thời dạy học. Anh là ai mà biết tôi? -
Con là Ngọc. Ngọc con ông Đốc Kim, học tṛ của
thầy hồi đó. Thầy
ôm vai tôi, ngấn nước mắt: - Tôi nhớ ra rồi…
Anh về hồi nào?...Trời
ơi lâu quá rồi, lâu quá rồi…
Mấy chục năm rồi
nhỉ? Phải hơn bốn chục năm rồi. Đúng
không? Tôi và thầy Thanh ngồi
trong quán cà phê, nhắc hoài chuyện cũ. Nhắc đến
người đi, kẻ ở, kẻ mất người
c̣n. Nhắc đến những đổi thay. Tôi hỏi
thầy có nhớ Nhân không, thầy bảo làm sao quên
được người học tṛ đặc biệt ấy.
Thầy cho biết bây giờ Nhân khó khăn lắm, cũng
khó gặp v́ Nhân t́m đủ cách để tránh mọi
người. Nghe như Nhân đạp xe ba gác chở rau ở
chợ Thanh Khê, đến đấy t́m chắc gặp. Thầy
c̣n cho biết Hồ Lê bây giờ
làm chức lớn lắm, cũng có ghé Thầy mấy
lần, có khi c̣n tặng quà. Tôi t́m về chợ Thanh Khê, hồi
xưa đây là xóm chài ven biển, nghèo lắm. Bây giờ
nhà cửa cao ngất như phố thị. Lân la ở chợ,
hỏi nhiều người tôi t́m vào nhà Nhân men theo con
đường nhỏ loằng ngoằn, sâu trong mấy
cánh đồng c̣n sót lại, nhà cửa thưa thớt,
chung quanh toàn rác rưởi. Căn nhà như cái lều, phía
trước có khoảnh sân nhỏ, rào thưa. Con chó gầy
c̣m đang phơi nắng thấy người lạ cất
tiếng sủa yếu ớt. Sân vắng, tôi gọi măi
không thấy ai. Một lát sau, một cái đầu bù rối
hiện ra nơi khung cửa cất
tiếng ồm ồm: Hỏi ai? Tôi bảo: T́m Nhân. Lại
cái giọng ấy: Nhân đi vắng
rồi. Người đàn bà hiện
ra, khuôn mặt lộ diện dưới ánh nắng. Một
khuôn mặt rất quen. Tôi nghĩ vẫn chưa ra. Tôi bảo:
Khi nào th́ Nhân về. Tôi đợi được không?
Người đàn bà nh́n tôi trân trân. Khuôn mặt quen lắm.
Tôi vẫn chưa nhớ ra nổi
khuôn mặt rất quen này. Tôi chào và đi ra ngơ. Con chó lười biếng không tiếng
sủa. Người đàn bà nh́n theo lẩm bẩm chi
đó không nghe được.
Tôi ngược ra đầu
ngơ, ngồi ở quán bên
đường, đợi Nhân. Tôi đốt đến
điếu thuốc thứ ba th́ trí nhớ vỡ oà.
Đúng là chị Đầm rô. Chị Đầm rô bán quán
chè đậu rất ngon, giọng nói ồ ề. Chị
Đầm rô dạy tôi hút thuốc lá. Chị Đầm rô
có ánh mắt ngưỡng mộ Nhân. Phải rồi.
Đúng là khuôn mặt của chị Đầm. Nhưng sao
chị lại ở trong nhà của Nhân? Tôi không cách ǵ nhận ra Nhân.
Nhân ngồi đó, trên chiếc ghế đẩu trơ trọi
giữa sân, trong ngôi nhà có khoảnh rào thưa, dưới
chân có con chó gầy g̣ quanh quẩn. Ly rượu cầm
tay, miếng mồi chỉ là con cá khô nhỏ và dĩa ớt
trái đỏ rực. Không c̣n nét nào của Nhân ngày xưa.
Đó chỉ là lăo nông ngồi uống rượu buổi
chiều. Những lọn tóc duyên dáng cũ đâu mất rồi,
chỉ c̣n một nhúm tóc lơ thơ lốm đốm bạc,
bết lại nằm lạc lơng trên vầng trán hói. Đôi
môi đỏ cũng đă không c̣n, chỉ c̣n lại một
khóe miệng khinh bạc, thâm x́ và móm mém, hàm răng trống
rỗng khiến cho khuôn mặt như choắt lại. Da mặt
b́ b́, thâm tái, men mét của người mắc bệnh gan
kinh niên. Những nếp nhăn dồn dập làm cho khuôn mặt
héo hon như trái táo tàu khô. Đôi mắt trũng, mờ tối,
đầy khói u ám. Đâu mất rồi ánh mắt sáng rực
đầy sát khí của Nhân bốn mươi năm
trước. Siêu nhân đây ư? Tấm gương của
nhiều bậc cha mẹ đây sao? Niềm mơ ước
của nhiều người!!! Chỉ c̣n lại là một
tấm thân tiều tụy và hom hem thảm sầu. Chắc
chắn là không phải là sự tàn phá của thời gian.
Thời gian không thể xóa hết dấu vết của một
con người tàn nhẫn đến như thế. Chỉ
có nỗi đau đớn của cuộc đời, tuyệt vọng,
tủi nhục, cay đắng và sự thất bại cùng cực mới làm cho một
con người đổ gục đến vậy. Nhân
hoàn toàn mang h́nh dáng của một con người khác. Tôi ôm Nhân, những giọt
nước mắt trào ra ướt mặt. Từ thân thể
Nhân bốc lên một mùi nằng nặng. Mùi chua của mồ
hôi lâu ngày, mùi úng thối của rau củ, mùi rượu trộn
lẫn với mùi bụi đời đắng cay. Tôi lại
khóc. Tôi cầm lấy tay Nhân, bàn tay nhiều vết xước,
màu da đen tái lốm đốm mủ cây trái, những
móng tay cũng đầy nhựa, nứt nẻ, nhiều vết
chai sần. Tôi nh́n xuống
đôi chân của Nhân. Đôi chân cũng khẳng khiu, sứt
sẹo, đen x́, những chiếc móng đầy cáu ghét,
đôi dép đứt quai được buộc lại bằng
sợi dây nhựa đỏ, đế ṃn vẹt. Lúc đầu
Nhân hững hờ ôm vai tôi, rồi bỗng siết chặt
và người Nhân rung lên. Tôi khóc như trẻ con. Bỗng
Nhân buông tay và nói như mắng: ĐM, mày vẫn như
xưa, lúc nào cũng ẩm ướt. Tôi lại thêm một ngạc
nhiên, không những Nhân đổi thay h́nh dáng, mà c̣n thay đổi
luôn cách xưng hô, và biết chưởi thề. Suốt thời
gian dài quen biết nhau, chưa bao giờ chúng tôi xưng hô
mày tao với nhau, chỉ gọi nhau là cậu tớ, Tôi
chưa một lần nghe Nhân buột miệng chưởi
ai. Tôi trố mắt nh́n Nhân, trời ơi, Nhân ngày xưa
đă chết thật rồi.
Biết đổ lỗi cho ai đây, hoàn cảnh, cuộc
đời hay thời thế. Hay là đổ cho số phận. Tôi ở lại với Nhân ba
ngày c̣n lại của chuyến đi. Ban ngày hai đứa
lang thang với những chốn kỷ niệm cũ, lê la
các hàng quán. Đêm về, hai đứa kể nhau nghe những
chuyện của đời nhau, những chuyện đời
buồn nhiều hơn vui. Tôi mua sắm nhiều vật dụng
cần thiết của cuộc sống, chị Đầm
rất vui khi nhận những món quà này, riêng Nhân vẫn dửng
dưng… ****** 7. Hồi đó, cuối năm
1976, Nhân vội vă trở về Đà Nẵng để trốn
lệnh truy nă. Chuyến đi kéo dài hơn tuần lễ.
Đón xe dọc đường từng chặng, có khi
đi bộ suốt buổi. Suốt đoạn đường
cũng chẳng có chuyện ǵ. Nhưng hôm từ B́nh Định
về Quảng Ngăi, sau một bữa nhậu say quắc cần
câu với cánh tài xế, sang hôm sau khi tỉnh rượu,
Nhân thấy ḿnh nằm ở vệ đường ở Mộ
Đức, tiền bạc trong túi bị tước hết.
Hai tên tài xế cho Nhân đi nhờ biến đâu mất.
Cũng may, Nhân đă chia nhỏ bó tiền, để mỗi
nơi một chút, nhờ vậy, cũng c̣n chút tiền dấu
trong đôi giày, dù không nhiều lắm. Đến Đà Nẵng nửa
đêm, căn nhà cũ của gia đ́nh nay đă biến
thành cơ quan của chính quyền mới. Lang thang suốt
đêm, thấy ḿnh như kẻ xa lạ ở một thành
phố khác. Lân la quán cà phê gần ngôi nhà cũ từ tờ
mờ sớm, Nhân biết được gia đ́nh ḿnh
đang ở trong một con kiệt nhỏ cuối
đường Hoàng Diệu, gần đường rầy
xe lửa. Ngôi nhà ngày xưa đă bị trưng dụng từ
khi cách mạng về, ba Nhân nhờ ngày trước có tham
gia kháng chiến chống Pháp, trước 75 cũng có thành
tích nuôi dấu cán bộ ǵ đó, nên không bị đi học
tập cải tạo, nhưng không được sử dụng. Nhân vừa bước vào ngơ,
ba Nhân đă nhận ra ngay. Ông
cuống quit ôm lấy Nhân, miệng cứ lập lại
măi một câu hỏi: Về lúc nào? Sao lại về? Về
lúc nào? Hành lí đâu? Nhân cũng ôm lấy cha, nước mắt
giàn giụa: Ba ngồi xuống đây nghe con nói, ba ngồi
xuống đi. Nhân qú dưới đất, lạy mấy
lạy. cứ lập đi lập lại: Ba ơi, con bất
hiếu không làm được ước nguyện của
ba rồi, rồi lại lạy. Ông Đốc ngồi sững
sờ, mang máng hiểu đă có một tai họa tày trời.
Niềm tin của ông, lẽ sống của ông. Sao lại
thế này? Nhân vừa khóc, vừa lạy, vừa kể hết
mọi chuyện. Lâu lâu lại nấc lên, nước mắt
đầy mặt. Ông Đốc có cảm giác như ngàn
lưỡi dao đâm vô ngực, xoáy mạnh. Tai lùng bùng,
trái tim như đang có bàn tay ai bóp nghẹt. Đầu óc
choáng váng, trái đất như sụp dưới chân ông,
ông thấy khó thở, trước
mặt chỉ là một khoảng tối vô tận.
Nhân kể lể không biết bao lâu, không thấy ông Đốc
động tĩnh ǵ. Nhân ngước lên, nắm lấy
tay cha. Anh hoảng hốt như điện giật, tay ông
Kim lạnh ngắt như nước đá, cứng đờ.
Nhân hốt hoảng ngồi lên, nh́n thấy khuôn mặt trắng
bệt, hai mắt mở trừng trừng của ba ḿnh,
anh hét lên: Ba ơi, con giết ba rồi, ba ơi!!! Ông Đốc
đă tắt thở từ lúc nào, mặt đanh lại,
hai mắt vẫn mở, hai hàm răng nghiến chặt, giận
dữ. Đám ma diễn ra lạnh lẽo,
chỉ c̣n hai anh em: Nhân và cô em gái. Cô em kế Nhân bị bệnh
thần kinh không biết lang thang ở đâu mà bị
cưỡng hiếp có bầu, rồi băng huyết lúc
sinh, chết hồi đầu năm. Đứa em bị
bệnh down th́ mất tích trong những ngày chộn rộn
cuối tháng ba năm bảy lăm. Thằng em trai kế Nhân nghe nói
đi bộ đội đóng ở Tây Ninh, nhưng chẳng
có địa chỉ liên lạc. Hôm đưa đám trời
lại mưa suốt buổi, hai anh em mặc áo xô, chống
gậy trông thảm thiết giữa đồng trống.
Nhân không khóc, nhưng hai mắt đỏ ngầu. Đám tang xong xuôi, Nhân đi
t́m Dạ Lan. Gia đ́nh Dạ Lan cũng lâm vào bi kịch.
Hôm Dạ Lan về Huế thăm bà ngoại, gia đ́nh ông
Bửu Hân tổ chức vượt biên. Hai vợ chồng
và cậu con trai bị băo tố d́m xác xuống đáy biển,
chuyến đi đó chỉ có mấy người
được tàu lớn cứu thoát, tạm ngụ ở Hồng Kông. Nhà bị tịch thu
v́ tội phản quốc. Dạ Lan xin được ở
lại trong căn pḥng nhỏ dành cho người giúp việc
ở góc sân cùng với cây
đàn piano. Không biết v́ lí do nào, những người
phụ trách cũng chấp nhận. Nhân nhiều lần t́m đến
chỗ ở của Dạ Lan, nhưng nàng không tiếp, cứ
trốn tránh măi. Sau cùng, hai người gặp mặt nhau,
Dạ Lan cho biết nàng đang mang thai, nhưng không cho biết
cha đứa bé là ai. Sững sờ. Nhưng Nhân chấp nhận
tất cả, chỉ mong ước được sống
cùng nhau. Nhân cũng không t́m hiểu ai là cha đứa bé…Sau
này, Nhân mới biết rằng cái bào thai là kết quả của
cuộc trao đổi để nàng được ở
lại căn pḥng nhỏ đó cùng với cây đàn. Và hai người đồng
ư chung sống, không lễ
cưới, không hôn thú, trong căn pḥng chật hẹp
dưới gốc cây ngọc lan, kết cục một cuộc
t́nh như thế cũng là một đoạn kết đẹp
v́ lúc bấy giờ là thời kỳ loạn lạc, nhiều
bất trắc. Nhưng cuộc sống không
phải chỉ có t́nh yêu là
đủ. Nhân không t́m đâu được việc làm, v́
cũng chẳng có giấy tờ chứng minh năng lực,
lí lịch lại mù mờ mà cũng v́ thời bấy giờ
phải có mối quan hệ nhất định nào đó mới
có thể kiếm được việc.. Loay hoay măi với
cơm áo, cuộc sống gia đ́nh bắt đầu thiếu
vắng tiếng cười. Lương cô giáo của Dạ
Lan với tiêu chuẩn mười
ba kí gạo bây giờ phải chia ra cho hai người, những bữa cơm toàn độn
sắn khoai với bo bo, canh rau và cá hẩm Mùa đông
năm đó, Dạ Lan bị tai nạn xe cộ lúc đi dạy
học về, chiếc xe đạp cong niềng, găy phuộc.
Dạ Lan chỉ bị trầy sướt nhưng lại
bị hư thai, máu nhuộm đỏ phần dưới
cơ thể. Không biết kiếm đâu ra tiền, Nhân
đành bán chiếc piano lấy chỉ vàng lo thuốc men cho vợ. Ở bệnh
viện về, biết chiếc đàn đă bị bán, Dạ
Lan im lặng suốt cả tháng, chẳng hé một câu nào.
Nhân thấy ḿnh có lỗi, và Nhân nhớ dự định của
ḿnh khi bước đầu du học, sẽ mua cho Dạ
Lan chiếc đàn piano tốt nhất lúc tốt nghiệp
trở về.. Dự định không thực hiện
được lại đem bán chiếc đàn kỉ niệm
của Dạ Lan. Nhân cảm thấy ḿnh hèn hạ và bất
lực. Thời ḱ này, người ta
rủ nhau đi săn trầm,
kiếm được rất khá. Trước bức bách
của đời sống và nỗi buồn khó nguôi của
Dạ Lan, Nhân quyết định vào núi t́m trầm, mong
đổi đời, hi vọng sẽ mua lại đền
cho vợ chiếc đàn khác. Rừng rú bao la, ngậm ngăi
t́m trầm, những chuyến đi nhiều khi kéo dài cả
mấy tuần. Cả bọn sống như dân du mục,
đến đâu dựng lều trại ở đó. T́m trầm là công việc chẳng
dễ dàng ǵ, mưa gió, rắn rít, thú dữ... tất cả
đều đáng sợ, có thể chấm dứt đời
người bất cứ lúc nào. Nhưng đáng sợ hơn cả là con
người. Lo nhất là lúc ăn được trầm,
đó là thời gian sinh tử,
phải rời rừng ngay bất cứ giá nào, nếu muốn
c̣n sống để trở về.
Chỉ cần một phát đạn, hay chỉ là một
nhát dao, một cú đâm từ sau
lưng, số trầm vừa kiếm được
sẽ không c̣n và tính mạng sẽ bị định đoạt. Sống như kẻ du mục và
cư xử như những kẻ du thủ. Nhân ḥa ḿnh vào
thế giới đó, và trở thành thủ lănh một nhóm
ba người. Suốt mấy tháng gần như kiệt sức
và cũng chẳng c̣n bao nhiêu vốn liếng, trầm vẫn
là những giấc mơ. Cả bọn quyết định
đi sâu vào rừng nguyên sinh, giáp ranh với vùng Tây nguyên.
Trúng đậm. Có cả kỳ nam.
Chuyến này sẽ đổi
đời. Ba người run rẩy gói ghém, rời rừng.
Mưa như trút. Mỗi người một ba
lô đầy căng trầm và kỳ nam. Trời nhá nhem, sấm
sét xé trời, đi ngang qua một đường ṃn,
dưới là vực sâu thăm thẳm. Một nhóm cướp
xuất hiện như từ dưới đất mọc
lên. Tiếng nổ đầu tiên hạ gục ngay người
đi đầu, xác rơi xuống vực cùng chiếc ba
lô. Nhân hét như sấm, băng lên, nhắm vào thằng
đầu đàn đang cầm súng, một cú song phi, tên
cướp ngă ngửa, súng văng ra. Nhân nhanh chân đạp
ngay báng súng, bật lên, cây súng nằm trong tay như một
ánh chớp. Anh lên đạn, bắn chỉ thiên nguyên một
tràng. Bọn cướp lóp ngóp bỏ chạy. Hai người chạy dưới
mưa, băng qua con suối tràn nước. H́nh như lũ
về. Những thác nước trắng xóa ào ạt. Nhân và
người đồng hành lóp ngóp bơi qua con suối.
Nước dữ dội, cuốn phăng phăng. Cả
hai mệt lử. Ranh giới sống chết. Đang cố
chống trả ḍng nước cuồn cuộn, Nhân nghe tiếng
kêu thảm thiết của người bạn. Anh quay lại,
nước đang kéo người bạn xa dần. Nhân cố
bương tới, nắm được tay trơn tuột.
Anh bạn sợ hăi, run rẫy, lắp bắp: Cứu
tôi..Cứu tôi. Lại tuột tay, Nhân cố bơi tới,
anh bạn buông ḿnh xuôi ḍng
nước, chiếc ba lô của anh ta rời khỏi
người trôi băng băng. Anh ta cố với theo
nhưng không kịp. Nhân cố vượt lên, nắm
được tay bạn, gh́ hết sức kéo lại. Lại
một đợt nước ào ạt, chiếc ba lô của
Nhân tuột khỏi vai, trôi theo ḍng nước dữ. Không
tiếc, phải sống đă. Cố lên, gắng lên.
Nước lũ đang về, những tiếng ầm ầm
như sấm động. Nhân ôm bạn, cố vươn
lên. Đến bờ, lại tuôn chạy trốn lũ.
Người bạn như cái
xác không hồn, líu díu chạy theo Nhân. Mưa rát mặt. Những
cành cây quất vào thân thể. Cứ bương tới.
Bương tới. Để sống. Cả hai chạy ra tới
b́a rừng, bên kia là quốc lộ. Sống rồi. Hai
người ôm lấy nhau, nước mắt ḥa nước
mưa. Lại trắng tay. Đón được một
chiếc xe của bộ đội sau khi ăn hai tô phở
lớn ngút khói ở quán phở bên đường. Nhân thấy
khỏe hơn và lúc đó anh mới thấy tiếc cái ba
lô kỳ nam vừa mất. Một gia tài đă tuột khỏi
tay. Ngồi trên xe dưới cơn mưa tầm tă, Nhân nhớ
Dạ Lan đến cồn cào. Anh h́nh dung thân thể trắng ngà, thơm tho của vợ.
Anh nhớ tiếng rên như mèo kêu của nàng khi cả hai
lên đến đỉnh của yêu đương. Mái tóc
dài xơa trên nền drap trắng.
Nỗi nhớ xôn xao trong dạ, anh mong về mau để
được ôm nàng trong ṿng tay với những lời yêu
thương. Nửa đêm Nhân mới về đến căn nhà nhỏ dưới
cây ngọc lan. Phố vắng
tanh. Mưa vẫn ào ạt. Anh đội mưa đi về,
định tạo một sự ngạc nhiên cho Dạ Lan.
Căn pḥng đèn mờ sáng. Cửa chỉ khép hờ. Anh
nhẹ nhàng đẩy cửa. Anh sững người.
Dưới ánh đèn mờ ảo, trên giường, những
khoảng trắng da thịt loang loáng theo nhịp. Tiếng
thở của người đàn ông, tiếng rên như mèo
kêu của người đàn bà. Khốn nạn. Máu Nhân
như đông cứng lại. Tim muốn vỡ ra. Hai bàn
tay bỗng nắm chặt, gồng lên chuẩn bị một
cú đấm. Đôi chân muốn vọng
động. Chỉ một cú tấn công, sẽ có người
chết. Bỗng Nhân run rẩy như người mắc
kinh phong, cả thân người giật không kiểm soát
được. Những giọt nước mưa từ
người anh đọng vũng trên sàn nhà. Đầu anh
bỗng nhức như muốn vỡ ra. Tim loạn nhịp.
Anh lặng lẽ đi ra, ngồi dưới gốc ngọc
lan, mưa vẫn xối trên người anh. Nhân thấy
ḿnh bất lực, tự khinh ḿnh. Anh chẳng trách ai cả.
Chẳng qua cũng bởi tại anh, v́ anh chẳng làm tṛn
trách nhiệm của một người chồng. Anh chỉ
mang lại những nỗi đau. Nhân ngồi như bức
tượng suốt đêm. Trời gần sáng, chân trời
sáng lên một vệt mờ. Có tiếng kẹt cửa,
người đàn ông len lén đi ra, lặng lẽ đi về
cuối phố. Nhân chẳng cần biết đó là ai. Chỉ
biết đó là người đàn ông đă ngủ với
vợ ḿnh suốt đêm qua. Từng đó cũng đă
đủ. Trời sáng hẳn. Dạ Lan
mở cửa, dắt xe ra.
Nàng quay lại khóa cửa th́ nh́n thấy Nhân. Thoáng một
chút hoảng hốt. Nàng cất tiếng: - Anh về hồi
nào mà không vào nhà? Sao lại ngồi dầm mưa thế
này? - Về hồi hôm. Không vào v́ căn nhà này không c̣n chỗ
cho tôi nữa rồi. Dạ
Lan tái mặt, người như muốn ngă, nàng níu cánh cửa,
hoảng hốt, lắp bắp. Chiếc xe ngă chổng
chơ bên thềm. Không chờ câu nói tiếp của Dạ
Lan, Nhân lẳng lặng đi nhanh ra đường. Phố bắt đầu một
ngày mới. Anh bước mà chẳng biết đi
đâu. Cả ngày hôm đó,
Nhân say khướt. Mấy hôm sau anh rời thành phố, lại
đi vào núi. Gần nửa năm sau, Nhân mới lại về. Lần này trở về,
Nhân định sẽ quên hết,
sẽ sống lại với Dạ Lan, làm lại một
chương mới. Quên tất cả. Nhưng, Dạ Lan
đă không c̣n nữa. Một tuần lễ sau khi
Nhân bỏ đi, không thấy Dạ Lan đến lớp,
nhà trường đến t́m nàng th́ phát hiện Dạ Lan
đă treo cổ tự sát. Nàng mặc chiếc áo màu tím than,
cổ quấn chiếc khăn quàng màu tím nhạt, di đôi
guốc cao cũng màu tím. Dây treo cổ siết làm cho lưỡi
nàng thè ra, khuôn mặt cũng tím rịm. Từ hôm đó, thành phố thêm một người điên. Nhân
lang thang bờ bụi, lúc nào cũng say khướt, Áo quần
càng ngày càng rách bươm, hôi hám, tóc tai bù xù, dơ bẩn. Ban ngày Nhân
thường đi dọc biển, lượm những
cành cây khô, bẻ nhỏ mang đến tiệm bán trầm
hương, đ̣i bán với giá cao, khi người ta bảo
không mua, đuổi đi, Nhân chưởi một tràng tiếng
Pháp và bắt đầu xổ tiếng Tây giờ này qua giờ
nọ, không ai hiểu. Đêm đến, anh múa vơ trên hè phố, miệng lẩm
bẩm tên Dạ Lan. Anh khóc cười vô chừng như mưa nắng. Anh sống
trong một thế giới khác. Những người
trước đây biết tài
năng của Nhân, chỉ biết chép miệng lắc
đầu, thương cho một số phận. Lúc đầu, bên công an
nghi Nhân giả điên với mục đích mờ ám
chính trị nào đó, nhưng
rồi sau một thời gian thẩm vấn và theo dơi, chẳng
thu thập được ǵ. Nhân sống như vậy gần
hai năm dài, rồi bỗng dưng thành phố vắng bóng người
thanh niên điên loạn nói toàn tiếng Pháp. Nhân lại đi vào núi, đến
Bồng Miêu rồi qua Phước Sơn đào vàng. Ở
đâu anh cũng trở thành đại ca v́ thế giới
của những kẻ săn vàng là thế giới của
bạo lực, giết nhau như cơm bữa, mà Nhân th́
vơ nghệ cao cường, nên đắc dụng trong cái thế
giới máu và vàng đó. Hơn nữa, sau những biến cố của cuộc
đời, Nhân bất cần thân thể, liều lĩnh
và tàn nhẫn. Những đặc
tính đó ở chốn giang hồ không xanh cỏ sớm
th́ chỉ là lănh chúa. Nhân bắt đầu giàu có,
những miếng vàng đào được biến Nhân
thành một đại gia, tiêu tiền như rác. Anh về
phố, mua một chiếc đàn piano mới cứng, thuê
xe chở đến mộ Dạ Lan, ngồi suốt ngày
độc thoại với cỏ cây, giun dế. Khi hoàng hôn
xuống, anh đốt chiếc đàn. Lửa cháy rừng
rực sáng một góc nghĩa trang.
Trong một lần nhậu ở
quán bên biển Mỹ Khê, sau khi đă chếnh choáng th́ anh
nghe ở bàn bên đang nói về anh. Một tay anh chị chắc
cũng đă xỉn, nói với mọi người: - ĐM, tưởng đi Tây
đi Mỹ về làm ông này bà nọ, cuối cùng cũng chỉ
là một thằng đi mót vàng. Lại thêm giết cha, giết
vợ. Nhân loạng quạng bước
qua, chỉ vào mặt tên đó và bảo: - ĐM mày là thằng nào mà dám
trêu ông, mày vừa bảo ǵ, nhắc lại xem nào. Thằng kia cũng chẳng phải tay vừa,
đứng lên hùng hổ, nói chưa hết câu đă ngă vật
ra giẫy đành đạch. Nhân vung tay một cú atémi chặt
vào gáy của địch thủ. Hắn chết ngay sau mấy
cái giẫy. Cả quán xôn xao, đứng cả lên. Nhân lừng
khừng bước ra quán, xiêu vẹo trên đường.
Tay chủ quán bắt vào mạch của nạn nhân, hét lớn: - Nó chết rồi, bắt
cái thằng giết người lại. Ai cũng la hét nhưng chẳng
ai có một hành động cụ thể nào. Nhân bước
ra ngơ, đi đến đồn công an bên kia đường,
tự thú. Án giết người, ṭa xử 15 năm. Ở tù trên rừng, lao động
đúng 9 năm th́ Nhân được đặc xá. Tiều
tụy trở về thành phố, Nhân chưa biết ḿnh sẽ
sống như thế nào th́ cơn sốt rét ác tính quật
ngă anh. Anh bất tỉnh bên vệ đường. Người
đi đường mang anh vào nhà thương, anh mê man suốt
mấy ngày, thân thể như cái xác ve, không một người
thân chăm sóc. Số mệnh đẩy đưa, hôm
đó chị Đầm vào bệnh viện thăm người
quen. Đi t́m pḥng, trời xui đất khiến thế
nào mà chị nh́n ra Nhân đang thoi thóp trên giường bệnh.
Chị ở lại chăm sóc cho Nhân mấy tháng ṛng, lúc xuất
viện chị đưa Nhân về nhà ḿnh, tiếp tục
lo miếng ăn, giấc ngủ cho Nhân. Và rồi họ sống
như vợ chồng. Lúc trước chị Đầm ở
bàu Thạc Gián, bán rau ở chợ Cồn, sau đó khu bàu bị
quy hoạch, được đền bù được ít
tiền th́ chị gặp Nhân, lo thuốc thang cho Nhân, c̣n lại
một ít, hai vợ chồng mua khoảnh đất ở
Thanh Khê. Vợ bán rau c̣n chồng chạy xe ba gác, sống tạm
cho xong một đời gần mười mấy năm
nay, loay hoay măi mà không đủ đút lỗ miệng. Tôi, Nhân và thầy Thanh ngồi
uống cà phê ở Bạch Đằng. Điện thoại
của thầy Thanh reo, thầy bảo đến đi,
đến đi, có Ngọc ngồi với Nhân, đến
cho vui nhé. Tôi hỏi ai vậy, thầy bảo: - Hồ Lê, Hồ Lê bữa
trước gặp tôi có nói là khi nào ngồi với mấy
anh th́ bảo Lê ra cho vui. Hồ Lê đến, vẫn
to cao lừng lững, trông c̣n khỏe hơn xưa. Hắn
mang vợt tennis, giày Adidas, áo thun cá sấu trắng kẻ sọc,
nh́n như tài tử. Sau lưng hắn có hai thanh niên trẻ,
đi kè kè, chắc là bảo vệ. Vừa bắt tay tôi hắn
đă hất hàm: Chào. Lúc này mày c̣n sợ tao không. Tôi buột
miệng: - Sợ gấp đôi ngày
xưa. Hắn cười cười: - Sao vậy? Tôi tiếp liền, sợ sẽ
không dám nói nếu ngần ngừ: - Ngày xưa tao sợ mày v́ mày
có sức mạnh, bây giờ mày vừa vẫn có sức mạnh
lại thêm quyền lực, sợ gấp đôi là phải
rồi. Thầy Thanh giảng ḥa: - Anh em bạn cũ gặp
nhau, mừng vui đi, hằm hè nhau làm ǵ hè. Tôi chợt nhớ ngày xưa
tôi hay chưởi thầm nó và tự bảo anh hùng mười
năm trả thù chưa muộn. Bây giờ đă bốn
mươi năm trôi qua, tôi vẫn là thằng dưới
cơ. Nhân bỗng lên tiếng: - Mày biết ngày xưa tại
sao thằng Hồ Lê ghét tụi ḿnh không? Tôi chưa kịp trả lời
th́ hắn nói luôn: - Ngày trước hắn thèm
cuộc sống của chúng ta mà không có được nên
ganh tỵ. Bây giờ hắn có điều kiện, mày thấy
không, hắn đang tập tành sống như ngày xưa cha
ông chúng ta đă sống, ăn chơi, nhậu nhẹt,
đánh gôn, chơi tennis, thế thôi. Thầy Thanh xua tay: -Thôi mà, cay cú nhau làm chi, vui với
nhau đi. Hồ Lê im lặng, chẳng
trả lời. Hắn đang nghĩ ǵ nhỉ? Bữa cuối ở Đà Nẵng,
tôi đi mua cho Nhân đôi săng đan, hắn bảo mua
dép nhựa dễ đi hơn, nhưng tôi nói thay đổi
tư duy cho đời khá hơn đi, mang dép da vẫn tốt
hơn chứ. Hắn cười: “ĐM, đương
nhiên da phải hơn nhựa rồi”.Tôi rút hết tiền
tiết kiệm được 37 triệu, tôi đưa hết
cho vợ chồng Nhân. Chị Đầm cầm tiền cứ
khóc măi, cám ơn tôi hoài. Tôi bảo với chị: - Đây là tiền của
Nhân, tôi gởi lại cho Nhân chứ không có ơn huệ ǵ
trong sự việc này, chị đừng bận tâm. Sau
này, cần ǵ cứ bảo tôi, tuy cũng chẳng giàu có ǵ
nhưng tôi với Nhân là hai anh em, phải biết giúp nhau chứ. Hôm tiễn tôi ra phi trường,
chị Đầm khóc và Nhân cũng rơm rớm nước
mắt khi ôm tôi. ***** 8. Tôi về Sài G̣n được nửa tháng th́ chị
Đầm điện thoại cho tôi. Bữa đó trời
mưa, nghe tiếng được tiếng mất v́ chị
khóc nhiều hơn nói. Đại khái là Nhân đă bị tai
nạn, xe lửa cán nát đôi chân của Nhân, không biết
có qua nổi không? Gần Tết
Nguyên Đán, mua vé quá khó khăn, tôi phải chầu chực
hai hôm ở phi trường mới kiếm được
cái vé bay ra. Nhân nằm đó, hai chân đă cưa đến
bẹn, băng trắng cả phần dưới. Người
hắn teo tóp, xanh mướt. Hắn cầm tay tôi, rưng rưng. Đôi săng
đan mới mua để trên đầu giường.
Nhân bảo:
. |