Bạn tôi – những
người lính Biệt Động Quân Tôi bị các ông Mũ Nâu Trần Tiễn San, Nguyễn
Thế Đĩnh, Đỗ Mạnh Trường chiêu dụ
nên đă đi lạc vào vùng lănh thổ trách nhiệm của
binh chủng thiện chiến này từ nhiều năm nay.
Mấy lần ngần ngại, sợ mang tội “giành dân lấn
đất” của mấy ông anh Mũ Nâu, tôi ngơ ư xin rút lui,
“di tản chiến thuật”, nhưng không những không cho
mà c̣n bị rầy cho một trận. Các anh bảo trận
chiến bằng ng̣i bút bây giờ cần phải “hành quân
phối họp”, để đánh lại cái chiến thuật
gọi là “hiệp đồng binh chủng” ǵ đó của
đám cộng sản. V́ vậy, tôi chỉ xin tạm thời
điền vào chỗ trống như một tay
súng tập tành cỡ Carbine M-1, M-2, cho đến khi nào các
anh có đủ các tay súng M-16, M-18 th́ tôi sẽ tự động
rút lui có trật tự. Viết cho Tập San Biệt Động
Quân cũng đă qua mấy “mùa hè đỏ lửa” rồi,
mà tôi chưa có bài nào ca ngợi Biệt Động Quân, th́
xem như đă đi lạc vào “Vùng Oanh Kích Tự Do”rồi.
Không khéo có ngày lănh đủ! V́ vậy kỳ
này nhất định phải viết về Biệt Động
Quân. Những anh hùng và
chiến công lẫy lừng của BĐQ th́ đă có các cây
viết Mũ Nâu thứ thiệt viết hết rồi,
tôi không dám làm cái chuyện múa ŕu, ngồi dưới đất
mà nói chuyện trên trời, một anh chàng họa sĩ kém
tài mà dám bày đặt vẽ chân dung của mỹ nhân, hay tập
tành bắt chước Trương Vô Kỵ kẻ lông mày
cho Triệu Minh quận chúa! Tôi chỉ xin viết
về bạn tôi, những người lính BĐQ mà tôi từng
quen biết. Tôi nghĩ v́ là bạn, nếu lỡ có
điều ǵ không đúng “tần số”, chắc các anh
cũng tha, không nỡ phạt. Nói về bạn bè Mũ Nâu, th́ tôi có khá nhiều,
từ quan tới lính. Ngay anh
em trong gia tộc tôi cũng có hơn một trung đội
(đầy đủ theo bản cấp
số), đa số đă nằm lại ở các chiến
trường. Bạn cùng khóa th́ cũng trên bảy
mươi chàng chọn Biệt Động. Ngày ấy,
chưa ra vũ đ́nh trường để được
quỳ xuống gắn lon, mà đă thấp thoáng bóng dáng nhiều
mũ nâu mới toanh trong các Câu lạc bộ Diệm Song,
Xuân Hương rồi. Có một số bạn
hy sinh hoặc bị trọng thương ngay sau khi vừa
mới ra trường. Chắc ngày trở
về ít nhiều ǵ cũng đă làm “dang dở đời
em”. Nhiều bạn chắc đánh đấm
có hạng, và đạn thù né tránh, nên đă lên nắm tiểu
đoàn từ những năm 71, 72. Mới
đây họp khóa điểm danh, dường như
hơn một nửa trong số đồng môn Mũ Nâu
không bao giờ c̣n gặp lại. Thôi cũng đành an ủi nhau bằng lời của người
xưa: “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!” Tháng 3 năm 1965, giă từ Đồi Tăng
Nhơn Phú, về tŕnh diện đơn vị, thuộc một
Sư Đoàn Bộ Binh ở tận xứ Buồn Muôn Thuở,
tôi lănh một trung đội chưa tới 20thằng lính,
nửa Kinh nửa Thượng. Mới tập tành đánh
đấm vài trận ở B́nh Tuy, Di Linh, Quảng Đức,
tôi theo đơn vị di chuyển xuống Nha Trang. Vui mừng v́ không ngờ lính đánh giặc trên
núi trên rừng lại có ngày về thành phố biển thanh
b́nh đẹp đẽ, ngay chính quê ḿnh. Chưa kịp
đi t́m những “hang động tuổi thơ” và vết
tích của vài mối t́nh học tṛ ngày trước, th́ có lệnh
cùng tiểu đoàn, lên tàu há mồm làm một chuyến “hải
hành” đêm. Cùng đi theo có một Chi
Đoàn M-113 tăng phái. Lên tàu lúc 10 giờ
đêm, chiều hôm sau cặp bến Tuy Ḥa. Khi ngồi
trên chiếc M-113 vừa “đổ bộ” lên bờ, tôi thấy
ngoài Trung Tá Trần Văn Hai ra đón, c̣n có mấy vị
sĩ quan Biệt Động Quân tháp tùng ông Tỉnh Trưởng
cùng gốc binh chủng này. Đang điểm
danh đám lính Thượng vừa “ly sơn” ngơ ngác, tôi
bất ngờ nhận ra trong mấy anh mũ nâu có ông anh
con bà cô, Trung úy Nguyễn Văn Tri. Ông anh
đẹp trai và hiền lành nhất trong đám bọn tôi
lúc c̣n đi học. Anh em ôm lấy nhau mừng
rỡ. Từ ngày tiễn anh tại sân ga Nha Trang để
vào Khóa 10 Thủ Đức, và sau đó làm phụ rể cho
anh trong lễ đám cưới với người t́nh
đẹp chung thủy của anh, đến bây giờ anh
em mới gặp lại nhau. Hỏi ra mới biết Tiểu
Đoàn 23 BĐQ của anh đă có mặt tại Phú Yên từ
khá lâu và cũng đă đánh đấm bao nhiêu trận lớn
giúp Tiểu Khu này mở rộng ṿng đai an ninh. Xứ này
thuộc Liên khu Năm của VC trước đây, nên
tương đối mất an ninh, đám nằm vùng, du
kích địa phương c̣n hoành hoành ở nông thôn. Gần
một năm trước đây, đơn vị tôi
cũng từng tham dự trận Vũng Rô -Đá Bia, nằm
cực Nam tỉnh này, tịch thu một kho súng cả mấy
ngàn khẩu lớn nhỏ đủ loại, mới toanh,
của Cộng quân từ miền Bắc chuyển vào bằng
đường biển. Ông Tỉnh Trưởng lại gốc
đàn anh Biệt Động Quân, một người từng
nỗ lực góp sức tạo dựng TTHL Biệt Động
Quân Dục Mỹ từ một doanh trại dă chiến
hoang phế của một đơn vị thuộc Sư
Đoàn 23BB giao lại, nên em út hết ḷng với ông là phải
đạo. Từ khi Trung tá Trần Văn Hai về làm tỉnh
trưởng, có Tiểu Đoàn 23 BĐQ hoạt động
thường xuyên, t́nh h́nh an ninh ở Phú Yên khá lên rất
nhiều. Anh Tri bảo tôi và mấy sĩ quan trong đại
đội lên xe jeep, anh chở chạy theo đoàn xe, về
vị trí nghỉ quân tạm tại Khu Nhà Bằng. Chờ
sắp xếp đơn vị xong, anh kéo bọn tôi ra một
quán nhậu để tâm t́nh. Quán này nổi tiếng món cá
lóc nướng và có hai cô con gái Huế thuộc hàng mỹ
nhân. Biết trong đám bọn tôi có hai anh thiếu úy tốt
nghiệp Khóa 19 VB, nên anh Tri gọi máy về Tiểu
Đoàn gọi một chàng cùng Khóa 19 ra gặp bạn đồng
môn và nhậu lai rai với bọn tôi. Anh Thiếu
úy BĐQ này cao ráo, đẹp trai, ít nói và có ngón đàn rất
hay. Anh được giới thiệu
là “Chương guitar”. Sáu năm sau tái ngộ ở
Đà Lạt, bọn tôi đă thấy anh đi xe jeep có mấy cái cần câu, mang lon thiếu
tá và đang làm tiểu đoàn trưởng của một
Tiểu Đoàn BĐQ. Anh rủ bọn tôi theo
anh xuống khu Trại Hành, đến một căn biệt
thự ăn cháo gà. Nhà có một bầy con gái đẹp.
Thấy các cô này có vẻ nể nang anh lắm, bọn tôi ngại,
không biết bà con hay quen biết thế nào với anh,
nhưng anh nháy mắt cười bảo là mấy cô này là
em bà con tao, thằng nào có tài th́ cứ tán thẳng tay. Không ngờ tôi có duyên nợ với anh. Sau
ngày sa cơ, tan đàn xẻ nghé, hai anh em lại gặp
nhau trong một trại tù ngoài Bắc, ở cùng tổ, nằm
bên cạnh nhau.Tối nào hai anh em cũng uống trà
tươi, v́ đội tù chúng tôi có nhiệm vụ trồng
và hái trà. Anh sống trầm lặng, khép kín,
nhẫn nhục, nhưng luôn khí khái và tư cách. Anh rất
khéo tay, t́m gỗ tốt làm được
cây đàn. Tôi phụ anh bào gỗ bằng mấy
mảnh ve chai và đánh bóng màu nâu bằng một loại vỏ
cây, tôi hỏi xin của đám tù h́nh sự. Tối tối
vừa uống trà vừa chơi Hạ Uy Cầm. Tiếng
đàn của anh nghe réo rắt, năo nuột, làm cả
đám công an gác tù mê mẫn, bu lại phía bên ngoài để
nghe. Anh trở thành một trong những bạn
tù thân thiết của tôi. Và dường
như anh cũng chỉ quen thân mỗi một ḿnh tôi. Ngoài anh Chương guitar, tôi c̣n có một anh bạn
làm “đại bàng” bên BĐQ. Nói là bạn cho oai, chứ tôi xem anh ấy như
ông anh.Tôi quen và trở nên thân t́nh với anh trong một
trường hợp khá đặc biệt. Năm 1970, khi toàn bộ Trung Đoàn tôi đang
trú đóng tại bản doanh Sông Mao, làm thí điểm thực
thi Kế Hoạch Chân Trời Mới, một vị Thiếu
Tá từ đâu mang ba lô về tŕnh diện. Trông
lạ hoắc. Tướng mạo lại có chút ǵ
đó không b́nh thường: nhỏ con, đầu trọc
và cặp mắt hơi lồi. Ông Trung Đoàn Trưởng
nói nhỏ với bọn tôi: Tay này gốc Biệt Động
Quân, từng là đại đội trưởng và tiểu
đoàn trưởng đánh đấm nổi tiếng từ
cái thời binh chủng này chưa thành lập cấp liên
đoàn. Chỉ
cái tính ngang bướng, bất cần đời, nên bị
đ́, trong cái lệnh thuyên chuyển về đây có ghi chú
“không được giữ các chức vụ chỉ huy”.
Ban bè cùng thời đều mang lon trung tá hết, có một
số lên đại tá, chỉ có anh c̣n thiếu tá. Anh tạm
thời được giữ lại ở Bộ Chỉ
Huy Trung Đoàn với một chức vụ không có trong bản
cấp số: Trưởng Trung Tâm Hành Quân. Với cái chức
vụ này th́ anh không có lính mà cũng chẳng có xe. Phải xử
dụng chung xe với Ban 3. Thấy anh là một niên trưởng lại có quá
khứ đánh đấm ngon lành, tôi thấy nễ và tội
nghiệp, luôn tỏ ra lễ phép và kính trọng anh. Ngược lại
anh cũng rất quí mến tôi, thường ngồi tâm
t́nh kể cho tôi nghe những trận đánh mà anh từng
tham dự. Tôi đưa xe cho anh
đi và kéo về ở chung nhà trong cư xá, cơm nước
vợ tôi lo. Rượu, bia thoải mái,
được mấy anh cố vấn Mỹ làm quà. Cuối tháng, lănh lương anh móc ví đưa tiền,
tôi quạt một trận, bảo “bộ tụi này không
nuôi nổi anh hay sao?” Anh cười,
nhưng lại lén đút vào túi mấy đứa con tôi, bảo
là quà của bác. Anh xem vợ chồng tôi
như em út trong nhà. Anh ít nói, sống khép
kín. Và dù với một công việc không tương xứng,
nhưng anh luôn chu toàn, không hề than văn
trách móc một ai. Một thời gian, thấy anh có khả năng
và chẳng có điều ǵ chê trách,
ông Trung Đoàn Trưởng làm tờ tŕnh lên Sư
Đoàn và Quân Đoàn, xin cho anh ra nắm tiểu
đoàn. Đề nghị
được chấp thuận nhưng anh lại phải
chuyển sang một trung đoàn khác. Chia tay, bọn
tôi cũng bịn rịn lắm. Anh c̣n tặng tôi một
khẩu Browning nhỏ xíu, anh bảo anh mua lúc sang học một
khóa chỉ huy tham mưu bên Mỹ. Tiểu Đoàn của
anh hành quân dài hạn ở Quảng Đức, thỉnh thoảng
anh liên lạc thăm tôi qua hệ thống siêu tần số
của Tiểu Khu. Mấy tháng sau, tôi bất ngờ nhận
được tin vợ con anh đều bị tử nạn,
khi VC giật ḿn chiếc xe jeep của
anh tại một địa điểm không xa ṭa tỉnh.
Vốn đă uống rượu thay nước,
bây giờ anh uống rượu nhiều hơn. Lần nào nói chuyện qua điện thoại, tôi
cũng nghe “hơi men” trong giọng nói của anh. Không
biết có phải v́ thông cảm cho sự mất mát quá lớn
lao này, mà đùng một cái anh được trở về
lại Binh Chủng BĐQ, thăng cấp Trung tá và chỉ
huy một Liên Đoàn ở Vùng 2. Tháng 4/72 tôi theo đơn vị
lên Kontum, lại có dịp gặp anh trong các cuộc hành quân
phối họp. Anh thường
hú tôi ra ăn cơm, uống rượu
ở các quán Bạch Đằng, Thiên Nam Phúc. Một lần anh dắt Liên
Đoàn trừ (chỉ có hai tiểu đoàn), tăng phái cho
đơn vị tôi, hành quân trong khu vực Chu Pao. Không biết lệnh lạc thế nào anh bất
b́nh, cự nự và c̣n “xổ tiếng Đan Mạch” với
ông Đại tá Trung đoàn trưởng. Ông này vừa
từ một trung đoàn khác về nắm trung đoàn tôi,
thay cho Đại tá Vơ Hữu Hạnh. Ông sếp của tôi
đ̣i báo cáo Tướng Toàn đề nghị đưa
anh ra Ṭa Án Quân Sự. Tôi lên máy gọi cho anh, ngữi thấy
mùi rượu trong giọng nói của anh, anh bảo “Lúc
trước, thời c̣n ở Quảng Đức, moa làm tiểu
đoàn trưởng cho cha ấy, cha đ́ và phạt moa 15
ngày trọng cấm rất tào lao, moa “đ..” phục!” Tôi an ủi “vuốt giận” anh, và nói với
ông Đại tá: “Ông Liên Đoàn Trưởng đang say,
Đại Tá chấp làm ǵ”. Làm dữ nhau vậy chứ cả hai ông đều
đă biết tẩy nhau, hết giận. Sau trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa” nhờ
tạo được chiến thắng vẻ vang, nên cả
Trung Đoàn tôi được cho về dưỡng quân 2
tháng ở Đồi Đức Mẹ Pleiku. Thời gian này BCH Liên Đoàn của
anh đóng tại Căn Cứ 41, trên QL 14 giữa Pleiku-
Kontum. Ngày nào không có hành quân, anh lại xuống
rủ tôi ra nhậu ở một cái quán ngoài Chợ Mới,
cùng một một số sĩ quan của anh. Lần nào bà chủ quán cũng đăi bọn tôi một
chai Hennessy “cổ vàng”. Bà góa chồng, c̣n
trẻ và có nhan sắc. Nghe mấy vị
sĩ quan của anh cho biết, bà là bồ của anh.
Không biết trong đơn vị, thuộc cấp, đồng
đội đánh giá anh ra sao, nhưng với tôi anh là một
người khí khái, chí t́nh, nhưng sống hơi “bất
cần đời”. Trong Biệt Động Quân, đặc
biệt ở Quân Khu 2, có lẽ không ai không biết tên anh
kèm theo một biệt danh: “Lang Trọc”. Cả hai anh Chương và Lang, sau những ngày
tù tội, được sang Mỹ theo
diện HO, sống ẩn dật trước khi qua đời.
Tôi chỉ được nói chuyện một
vài lần qua điện thoại. Tôi hân hạnh được quen biết với
hai ông quan của binh chủng Mũ Nâu này trong những
trường hợp rất t́nh cờ, nhưng c̣n đọng
lại trong ḷng tôi những kỷ niệm và t́nh cảm khó
quên. Tôi cũng có một anh bạn thân gốc
BĐQ, trước 75 là một Hạ sĩ 1, tài xế. Anh đă để lại trong tôi
nhiều cảm xúc và một niềm ân hận khôn nguôi, v́
nghĩ ḿnh đă không xứng đáng với tấm ḷng của
anh, không giữ được lời hứa với anh
trước khi anh mất. Sau hơn một năm chuyển tù từ miền
Bắc vào Nam, tháng 9 năm 1983 tôi được thả ra
khỏi trại Z.30C. Về nhà chưa hết nỗi vui mừng
gặp lại vợ con, tôi đă nh́n ra một tương
lai u ám của gia đ́nh. Đă vậy c̣n bị
bọn chính quyền địa phương gây khó khăn,
áp chế đủ điều. Lúc này muốn
t́m bất cứ một việc ǵ làm kiếm cơm
cũng quá nhiêu khê. Làm lơ xe đ̣
cho ông anh họ một thời gian. Chiếc xe
cũ được biến chế từ một chiếc
xe Jeep, không chịu nổi t́nh tạng “quá tải” mỗi
ngày, nên cứ hư hỏng luôn mà lại không kiếm
được phụ tùng thay thế. Rất may tôi có một
chú em bà con, trước kia là trung sĩ của
tôi, t́m đến thăm và bảo tôi lên Ban Mê Thuột phụ
trồng cà phê với gia đ́nh chú. Cô vợ gốc Bắc
Kỳ di cư 54, nhưng đă sống ở Ban Mê Thuột
từ lâu, rất chịu khó và am tường về chuyện
trồng trọt, nhất là cà phê. Sau hơn ba tháng, với
nhiều khó khăn, tôi mới xin được “giấy
phép tạm vắng”(?) và “giấy phép
đi đường”. Đón chiếc xe
đ̣ nhỏ, tôi lên BMT t́m đường đến nhà chú
em. Thời ấy chẳng có điện thoại
để liên lạc. Xuống bến xe
BMT tôi chẳng biết phải làm sao, hỏi thăm anh tài
xế, mới té ngữa là nhà thằng em ở cách xa thành
phố cả hơn sáu cây số. Trời lại
sắp tối. Anh tài xế tốt bụng
mời tôi về nhà nghỉ tạm. Ngồi tâm t́nh,
khi biết tôi đi tù mới về và một ít về tôi,
anh đứng dậy đưa tay lên
nghiêm chào theo kiểu nhà binh, gọi tôi là ông thầy. Tôi bất ngờ cảm động. Trong cái
cảnh nhá nhem t́nh nghĩa này vẫn c̣n có những người
lính chung thủy như anh. Anh
cho biết trước 75, anh là Hạ sĩ 1, tài xế của
một Liên Đoàn BĐQ ở Pleiku. Anh
giữ tôi ở lại nhà, giới thiệu với vợ
và hai đứa con nhỏ, bảo vợ nấu nướng
mấy món để hai anh em nhậu chơi và nói chuyện
đổi đời. Chị vợ
cũng rất vui vẻ hiếu khách. Ban Mê Thuột là
nơi đại đơn vị của tôi đặt Bộ
Tư Lệnh ở đây từ năm 1960 cho đến
ngày bị Cộng quân đánh chiếm, dẫn đến
việc di tản Quân Đoàn II và mất cả miền Nam.
Trực thuộc Sư Đoàn 23 BB, nhưng
Trung Đoàn tôi lại phụ trách vùng duyên hải, chỉ
thỉnh thoảng về đây tham dự các cuộc hành
quân phối hợp qui mô. Riêng tôi mỗi
năm về đây họp ở BTL một đôi lần.
Do vậy tôi không mấy am tường địa thế. Hơn nữa, bây giờ cũng đă đổi
thay nhiều quá. Dân ngoài Bắc đổ
xô vào đây giành đất của người Thượng,
nên đă từng xảy ra xô xát. Bất măn, nhiều
thanh niên Thượng đă bỏ buôn làng, trốn sang Thái
Lan, Cam Bốt, hoặc gia nhập Lực Lượng Fulro
chống lại CS. Sáng sớm hôm sau, anh bạn gốc BĐQ chở
tôi đến khu vườn cà phê của thằng em bằng
xe Honda. Nếu không có anh, chắc
tôi không thể nào t́m được, v́ đường
không có tên và nhà cũng chẳng có số. Anh dừng lại hỏi thăm nhiều người
mới t́m được đến nơi. Tôi giới thiệu anh với thằng em. Hai
người chỉ kịp bắt tay, v́
anh c̣n phải trở về cho kịp lái chuyến xe đ̣
đi Nha Trang. Vừa ở được hai hôm, bọn công an địa phương t́m tới hạch
hỏi, không cho phép tạm trú. Thằng em phải
lo lót chút tiền, cuối cùng tôi cũng chỉ được
làm việc ở đây ban ngày, c̣n tối th́ không được
phép ở lại, v́ vùng này có hoạt động của
Fulro. Bọn công an cho biết thế.
Tội nghiệp thằng em, lo lắng chạy
vạy khắp nơi vẫn không được.
Không muốn gây phiền hà cho em út, tôi bảo chở tôi về
phố, t́m đến nhà anh tài xế xe
đ̣ gốc BĐQ để xin theo xe về lại Nha
Trang. Không ngờ, khi gặp anh, anh nhất quyết
giữ tôi ở lại, anh hứa sẽ cùng với thằng
em đưa đón tôi từ vườn cà phê về nhà anh
ngủ mỗi đêm, cơm nước anh lo. Vợ chồng làm ăn, nên quen biết hết
đám công an. Anh tin là bọn chúng sẽ không làm khó dễ ǵ
tôi. Nếu cần anh chỉ nhét vào miệng
bọn nó ít tiền là xong ngay. Làm cà phê chừng hơn một tháng, thấy phiền
hà quá, hơn nữa vườn cũng vừa mới khai
quang, nhỏ, không có nhiều việc để làm, nên tôi bảo
thằng em và cả anh tài xế, tôi muốn về lại
nhà để t́m cách vượt biên, chứ không thể tiếp
tục sống cuộc đời như thế, nhất
là tương lai đen tối của mấy đứa
con. Thằng em biếu cho một ít tiền.
Đêm cuối cùng ở nhà anh tài xế, hai anh em tâm t́nh khá
lâu, anh bảo cũng rất muốn vượt biên
nhưng khó t́m ra mối và thời gian ấy có rất nhiều
người bị gạt, tiền mất tật mang, không
biết tin ai. Anh ngơ ư mong muốn cùng tôi vượt
biên. Tôi hẹn sẽ nhất định
t́m gặp anh khi có đầu mối. Sáng hôm sau tôi theo xe anh về nhà ở Ninh Ḥa. Anh ghé lại
nhà tôi chơi và c̣n dúi vào tay tôi một mớ
tiền, bảo là biếu cho các cháu. Sau khi anh
đi rồi, xem lại, tôi rất cảm động v́ số
tiền anh biếu, với tôi lúc ấy không phải là ít. Tôi bắt đầu tổ chức chuyến
vượt biên cùng với một nhóm bạn cùng tù. Chuyến đi sắp thực hiện, tôi ra bến
xe mấy lần t́m anh, không gặp. Tôi
lên Ban Mê Thuột, và rất bất ngờ được
biết xe anh vừa bị tai nạn
trên đèo M’Drak, anh bị thương nặng đang nằm
trong bệnh viện. Tôi đến thăm,
ḿnh mẫy c̣n quấn đầy băng trắng, cả
hai chân bị găy, vừa mới được giải phẫu,
c̣n treo lên thành giường. Nước
mắt tôi ứa ra, chỉ ôm nhẹ vai anh mà không nói
được lời nào. Chuyến vượt biên, tôi không thể một
ḿnh quyết định được. Hơn nữa cần phải bí mật
và đúng thời điểm. Tôi có nói về
anh và xin các bạn vui ḷng chờ thêm một thời gian nữa,
nhưng tất cả đều phản đối, bảo
phải ra đi càng sơm càng tốt, kéo dài thêm nhất
định sẽ bị lộ. Khi đưa vợ
con và bạn bè xuống tàu vượt biển, ḷng tôi rất
buồn v́ thiếu gia đ́nh anh, người bạn
BĐQ rất có ḷng và chí t́nh với tôi. Chuyến đi
thành công, nhưng riêng tôi ḷng vẫn đau đáu v́ không giữ
tṛn lời hứa với một người bạn, một
chiến hữu đàn em, đă từng mở rộng ṿng tay và cả tấm ḷng giúp ḿnh trong lúc cùng quẫn
khó khăn. Sau khi đến trại tỵ nạn Singapore,
một trong những người đầu tiên tôi gởi thư về, là anh. Trong thư
tôi tŕnh bày khéo léo để anh hiểu là tôi rất ân hận
v́ không giữ lời hứa và cũng mong anh thông cảm
cho hoàn cảnh đặc biệt, bất khả thi của
tôi. Tôi hứa sẽ lần lượt giúp anh một số
tiền để anh t́m chuyến vượt biên an toàn khác. Nhờ một vị mục sư
Tin Lành giúp, giới thiệu ra làm chui ở một nhà kho
ngoài phố Singapore, tôi xin ứng lương trước,
và gởi cho anh 500 đô la, như một món quà tượng
trưng cho lời xin lỗi của ḿnh. Tất
cả tôi đều gởi về cho thằng em làm cà phê,
nhờ trao lại cho anh. Một tháng sau,
nhận hồi âm từ thằng em. Tôi bàng hoàng khi biết
là anh bạn Biệt Động Quân đáng quí của tôi
đă chết sau vài ngày tôi ra đi, v́ vết chấn
thương làm máu tụ lại trong đầu, bệnh viện
không kịp và cũng không có khả năng giải phẫu.
Số tiền tôi gởi về chỉ đủ để
chị vợ xây mộ cho anh! Về
phần tôi, sau hơn hai ngày bềnh bồng trên biển,
chúng tôi đựợc một chiếc tàu chở dầu của
Na-Uy cứu vớt, trước khi một cơn băo lớn
ập xuống. Với ân t́nh đó, chúng tôi chọn
Vương Quốc Dầu Lửa Bắc Âu này là nơi
để tạm gởi phần đời c̣n lại của
ḿnh, gầy dựng
tương lai cho mấy đứa con và cũng để
chữa trị vết thương chưa lành được
trong ḷng. Sau hơn hai tháng ở trại Singapore, và sáu tháng ở
trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, gia đ́nh tôi
được đến Oslo, định cư. Khi bước ra khỏi cổng phi trường
Fornebu xa lạ, tôi bất ngờ, xúc động khi có một
số đồng hương đến đón. Điều vui hơn đa số đều là những
đồng đội gốc lính ngày xưa. Trong số này tôi
đặc biệt chú ư đến một anh rất trẻ,
trên đầu đội cái bê rê màu nâu đă phai màu. Không ngờ sau này anh lại trở thành một trong
số bạn bè thân thiết của tôi. Lúc
ấy anh đang sống độc thân, v́ vợ c̣n ở
Việt Nam. Vợ và đứa con trai đầu ḷng
của anh cũng đă đi vượt biên một chuyến
khác, sau anh vài tháng, nhưng không may, ghe bị ch́m trên biển,
chị bị bắt và đứa con đă chết. Chuyện buồn này lại hằn thêm trong ḷng anh
một vết thương khá lớn. Anh nhỏ hơn tôi nhiều tuổi, và biết
tôi đi lính trước nhiều năm, nên anh coi tôi
như anh. Nhưng
qua tư cách và ḷng quí trọng, tôi luôn xem anh là một
người bạn, đúng nghĩa bạn. Trước
75, anh là Trung úy, Trưởng Ban 2 (kiêm Trưởng Ban 5) của
Tiểu Đoàn 21 BĐQ, Vùng I. Chúng tôi cùng nhiệt t́nh hoạt động trong
một tổ chức kháng chiến. Vào thời điểm ấy, tổ
chức này rất nổi tiếng và được bà con
đồng hương khắp nơi tham gia, ủng hộ.
Anh luôn nỗ lực, sẵn sàng t́nh nguyện làm bất cứ
một công tác nào. Ngày đêm không mệt mỏi.
Cuối tuần c̣n đi làm thêm ngày thứ Bảy hay Chủ
Nhật để đóng vào Quỹ Kháng Chiến, có khi anh
trích cả nửa tháng lương. Khi một cán bộ cao
cấp của tổ chức này từ Hoa Kỳ đến
Na-Uy sinh hoạt, cả anh và tôi đều t́nh nguyện xin được về “chiến
khu quốc nội”(?), nhưng ông ta bảo không c̣n cần
thiết nữa. Chỉ một tháng sau đó, tổ chức
này rạn nứt, tan vỡ, phơi bày bao điều không
thật, đau ḷng. Chúng tôi thất vọng và
phẫn nộ khi có cảm giác ḿnh bị lừa dối.
Đau buồn nằm nhà một thời gian như một
người cần được dưỡng
thương, anh đứng dậy bằng tất cả
nghị lực, đi thăm tất cả bà con đồng
hương trong vùng anh cư ngụ, đặc biệt gặp
nhiều thanh thiếu niên, sinh viên học sinh, trang bị
cho họ tinh thần yêu nước, chống Cộng, tham
gia vào các tổ chức cộng đồng và các cuộc biểu
t́nh chống các cuộc “tham quan” của đám chính quyền
cộng sản đến Nauy tổ chức văn nghệ,
triển lăm có tính tuyên truyền. Anh phân tích và
khuyên những thanh niên trí thức không về cộng tác với
kẻ thù trong nước, khuyên bà con hạn chế về
Việt nam, nhất là chỉ để du lịch. Sau
khi bảo lănh vợ sang, cả hai vợ
chồng đi làm cật lực. Vợ anh là một giáo chức
trẻ thời VNCH, nên được tiếp tục dạy
tiếng Việt cho học sinh, sinh viên Việt nam, như
là ngôn ngữ thứ ba đươc chính thức công nhận
trong các trường trung học Na-Uy. Anh chị
mua ngôi nhà khá đẹp, ngoại ô một thành phố nhỏ,
nằm bên b́a rừng và một con sông tĩnh mịch.
Anh tự tay làm một cái vọng gác khá
cao, có thang trèo lên. Trên vách có vẽ h́nh đầu con cọp,
huy hiệu của BĐQ. Mùa hè, tối nào anh cũng leo lên, nằm đu đưa trên chiếc
vơng nilon, uống rượu mà nhớ chiến trường
xưa, hoặc đứng quan sát bốn phương với
chiếc ống nḥm, tưởng như ḿnh đang c̣n gác giặc.
Mỗi lần nhắc đến đơn vị, hay một
đồng đội nào đă hy sinh, anh khóc tức tưởi,
nước mắt đầm đ́a. Vợ con, bạn bè bảo
tính anh th́ nóng như Trương Phi mà dễ rơi nước
mắt. Anh ca ngợi đơn vị anh, Tiểu Đoàn
21 BĐQ, đồng đội và mấy ông thầy của
anh dữ lắm. Lúc ấy tôi chưa biết “anh hùng bạt
mạng” Trần Thy Vân và người hùng Thiếu Tá Quách
Thưởng là ai, nhưng chỉ nghe qua lời anh kể
là bọn tôi thấy nể hai ông thẩm quyền và đại
bàng của anh ấy rồi. Trong pḥng khách, cái
bê-rê màu nâu và cái mũ sắt mang lưới ngụy trang có
h́nh đầu con cọp được để trân trọng
trên kệ sách. Tôi biết anh luôn hănh diện và trân trọng
binh chủng và nhớ tới đồng đội cùng
đơn vị cũ của ḿnh. Quê ở Huế, anh xuất thân từ một
gia đ́nh thế giá. Các anh chị đều là giáo sư và công chức
cao cấp thời VNCH. Có một bà chị và một cô
em gái định cư ở Mỹ từ lâu, nhưng anh
không sang Mỹ mà chọn Na-Uy để định cư. Tôi cũng không ngờ anh “hận” Mỹ ghê gớm
như vậy. Mỗi lần ngà ngà say là anh chữi Mỹ,
réo tên Kissinger ra mà chữi, gọi là lũ
khốn kiếp, phản bội, bán đứng đồng
minh! Và anh nhất định không sang Mỹ. Sau này vợ
chồng tôi và bà xă của anh khuyên măi, bảo phải sang
thăm đồng đội và nhất là mấy ông thầy,
ai nấy đều già hết rồi, không sang gặp
để rồi mai mốt ân hận. V́ vậy mà vượt
biển định cư ở Na-Uy từ năm 1980, măi
đến mùa hè 2013 anh mới sang Mỹ lần đầu
để tham dự Đại Hội BĐQ Kỷ Niệm
53 Năm Thành Lập Binh Chủng BĐQ tại San Jose, và
ghé Hawaii thăm một người đàn em rất chí t́nh,
vẫn đang c̣n sống đời độc thân bên ấy. Cả vợ chồng rất tích cực trong các
sinh hoạt cộng đồng, nhất là việc gây quỹ
ủng hộ anh em Thương Phế Binh c̣n sống khốn
khổ ở quê nhà. Mỗi
lần nh́n h́nh ảnh các anh em TPB với thân thể không
toàn vẹn, mù ḷa khốn khổ, được các linh mục Ḍng Chúa Cứu Thế Sài g̣n
đón về sinh hoạt, giúp đỡ, anh khóc cả ngày,
không ăn cơm, chỉ ống rượu tiêu sầu. Sau đó anh liên lạc với linh mục Đinh Hữu
Thoại. cám ơn ông và đi vận
động bà con, góp tiền gởi về đóng góp. Tôi thương và rất quí anh, quí một
người bạn tư cách khí khái, và tấm ḷng của một
người lính VNCH thủy chung. Mười năm sau này, sau khi về hưu, tôi
thường sang Cali sống sáu tháng mùa đông, trốn cái
lạnh Bắc Âu, mà với tuổi già càng lúc cái lạnh
như càng ngấm vào da thịt và cả trong ḷng ḿnh, tôi có
dịp quen biết với nhiều cựu Mũ Nâu khác, và
dù quan lớn hay quan nhỏ ǵ ai nấy cũng dễ
thương. Các anh Nguyễn Minh Chánh, Trần Tiễn San,
Nguyễn Thế Đĩnh, Đỗ Mạnh Trường,
Trần Như, “Bà ngoại” phó nḥm Hồng Hải(Văn Hà), chuyên viên viết phóng sự,
người hùng Polei Kleng Phan Thái B́nh…Đặc biệt
trong số này có ông Thiên Lôi “Đĩnh Đầu Bạc”
là ông anh đồng môn huynh trưởng của tôi ở
Trường Vơ Tánh Nha Trang, thời anh vừa bước
chân xuống tàu há mồm ca bài “ Tôi xa Hà nội năm lên
mười…sáu, khi vừa biết yêu. Bao nhiêu mộng đẹp
yêu đương thành khói tan theo mây chiều…” Ông bạn Trần Như là đồng
hương Nha Trang rất hiền hậu dễ
thương, người xứ Cổ Thành, nhưng đă
đón được cô ca sĩ trẻ Phan Thiết về
dinh. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp các
anh cùng với nhiều Mũ Nâu khác ở Cà phê Factory, ngồi
kể chuyện chiến trường, chuyện một thời
ngang dọc ngày xưa. Tôi quư các anh vẫn giữ
được cái t́nh đồng đội, huynh đệ
chi binh, và bỗng dưng tôi nhớ tới bài Nhớ Rừng
của nhà thơ Thế Lữ viết từ năm 1936 Ta sống măi trong t́nh thương nỗi nhớ, Thủa tung hoành hống hách
những ngày xưa. Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn
hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội, …… Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị. Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa, Nơi ta không c̣n được thấy bao giờ! Có biết chăng trong những ngày ngao ngán, Ta đương theo giấc
mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được
gần ngươi, Xin cám ơn bạn tôi, những người hùng
Biêt Động Quân, dù quan hay lính, đă chết hay c̣n sống,
vẫn luôn là những con hổ khí phách, nhớ rừng, nhớ
đồng đội và đang luôn tâm niệm một ngày
giải phóng quê hương. Đúng là “Người lính già
không bao giờ chết, họ chỉ mờ dần theo năm tháng”, như lời một bài hát rất
xưa mà Tướng Douglas MacArthur đă dùng trong bài diễn
văn đọc trước Lưỡng viện Quốc
Hội Hoa Kỳ, ngày ông rời quân ngũ: “Tôi đang khép cánh cửa cuộc đời
binh nghiệp 52 năm. Khi tôi gia nhập quân đội trước khúc
quanh thế kỷ, mọi hy vọng và ước mơ
thơ ấu đă thành tựu. Thế giới đă
đổi thay bao phen kể từ khi tôi tuyên thệ trên
vũ đ́nh trường West Point, và những giấc mộng
và uớc mơ đă tan biến từ lâu. Nhưng tôi vẫn
c̣n nhớ điệp khúc một bài ca quen thuộc nhất
trong doanh trại của thời đó được hát một
cách kiêu hùng: “Nguời lính già không bao giờ chết, họ
chỉ mờ dần với năm tháng”. Và giống như
nguời lính già của câu hát đó, tôi đang khép cửa cuộc
đời binh nghiệp và mờ đi, và nguời lính già
đă cố gắng làm tṛn nhiệm vụ mà Thuợng Đế
đă soi sáng để thấy nhiệm vụ đó. Xin
chào tạm biệt mọi nguời” (I am closing my fifty two
years of military service. When I joined the army before the turn of the
century, it was the fulfillement of my boyish hopes and dreams. The world has
turned over many times since I took the oath on the plain at West Point, and
the hopes and dreams have long since vanished. But I still remember the refrain
of one of the most popular barrack ballads of that day which proclaimed most
proudly that – Old soldiers never die, they just fade aways. And like the old
soldier of that ballad I now close my military career and just fade away, and
old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that
duty. Goodbye!) Phạm Tín An Ninh , |