Luật Nhân Quả Trong Đời Sống Xă Hội
và Khoa Học Thái Nhân quả
không phải là một khái niệm tôn giáo (dogma) mà là một
quy luật thiên nhiên (natural law) ảnh hưởng thế giới
nội tâm và thế giới vật chất. Nhân quả c̣n là
một lực (force) gắn liền hai biến cố
với nhau qua không gian và thời gian. LUẬT NHÂN QUẢ LÀ MỘT CUỘC CÁCH MẠNG
TÂM LINH Khi con người không hiểu
luật nhân quả, con người sống trong sự
sợ hăi mê tín mù mờ. Họ giải thích
những hiện tượng thiên nhiên qua sự mê tín
dị đoan. Thí dụ khi hạn hán mất mùa,
họ nghĩ là v́ ông thần đất đai
giận nên phải hối lộ ông ta bằng cách cúng bái
mới có được trời mưa. Mới đầu
th́ tế lễ bằng con gà không có hiệu quả,
rồi đến con ḅ, đến khi sự cuồng tín
lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay
một trinh nữ để tế thần như dân
tộc Incas đă từng làm. Ngoài ra trong
cuộc sống hàng ngày, đi, đứng, làm cái ǵ quan
trọng th́ phải coi ngày giờ tốt như vậy
để tránh sự sợ hăi của những điều
xấu xảy ra bất thần chớ không hẳn là tránh
được những điều xấu. Nếu
quả thật có như vậy th́ thế giới này không
có sự đau khổ v́ mọi sự đều theo ư muốn của con người. Nếu vị vua nhờ thầy địa lư
giỏi nhất nước để xây cung điện
nhưng nếu không thương dân, sưu cao thuế
nặng, chính sách hà khắc th́ ngai vàng khó giữ vững
bền lâu v́ bị nội loạn. Nói
về hành động cá nhân, nếu không nhận thức có
luật nhân quả th́ không có ǵ ngăn cản con
người làm việc ác miễn sao trốn tránh
được cặp mắt của luật pháp là
được, cho nên xă hội rất bấp bênh. Nếu vua và dân hiểu được luật
nhân quả th́ đất nước dễ thanh b́nh và nhân
dân sẽ được hạnh phúc. Khi Đức
Phật giác ngộ th́ Ngài nhận ra luật nhân quả là
nền tảng của thế giới tâm linh và vật
chất. Mọi hiện tượng từ tâm lư
đến vật chất đều có những sự liên
quan vô h́nh rất chặt chẽ, đó là luật nhân
quả. Luật nhân quả là sợi dây
vô h́nh nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian
và không gian. Cho nên khi hiểu luật nhân quả, ta có
thể thay đổi biến cố đó theo
chiều thuận cho ta, thay v́ phải lo sợ hối
lộ hoặc cầu khẩn một vị thần linh
tưởng tượng nào đó phù hộ cho ta hoặc
thỏa măn điều ta mong ước. Sự
mê tín cuối cùng sẽ đưa đến sự
thất vọng và mặc cảm tội lỗi (ta có
tội nặng quá nên vị thần không giúp
được). Luật nhân quả rất
đơn giản, nếu muốn có một kết quả
tốt th́ ta phải tạo nhân lành. Thí dụ
như khi ta nuôi dưỡng một ư nghĩ hận thù th́
ta không thể vui cười hồn nhiên được.
Khi ta gạt gẫm người khác th́
tối về ngủ không yên giấc v́ sợ bị phát
hiện. Khi ta gieo hạt lúa th́ không bao
giờ được cây cổ thụ. Khi con
người bắt đầu hiểu được
như vậy th́ họ lấy về được
một phần sức mạnh của những vị
thần linh. Họ bắt đầu làm chủ
được tương lai của họ và lấy
lại định mệnh của họ từ tay các
vị thần.. Hiểu và tin
được luật nhân quả là một cuộc cách
mạng tâm linh (spiritual revolution) v́ sự nhận thức đó
sẽ phá tan gông cùm của sự mê tín và giúp con
người làm chủ được cuộc sống của
họ. LUẬT NHÂN
QUẢ VÀ KHÁI NIỆM KHÔNG GIAN THỜI GIAN Khi đi từ
thế giới tâm linh qua thế giới vật chất th́
sự thể hiện của luật nhân quả thay
đổi từ rơ đến mờ. Sự thể
nghiệm ở thế giới tâm linh rất nhanh và rơ
nhưng khi qua cái màn nặng nề của thế giới vật
chất th́ luật nhân quả bị loăng ra v́ phải
trải qua nhiều thời gian mới hiện ra rơ
được. Cũng v́ thế mà khi con mắt
bị vật chất làm mờ rồi rất khó mà
nhận thức luật nhân quả. Thí dụ
như kẻ trộm thành công một vài lần rất khó
nhận thức rằng ḿnh sớm muộn ǵ sẽ vào tù.
Nếu kẻ trộm đó nhận thức rằng ḿnh
cần phải thay đổi ḷng tham của ḿnh (thế
giới tâm lư) th́ trong tức khắc có khả năng thay
đổi được chiều hướng cuộc
sống ḿnh bằng cách học nghề và làm ăn
lương thiện. Ngược lại nếu anh ta
cứ tiếp tục hành nghề bất lương, ḷng
tham càng lớn và ăn trộm càng táo
bạo hơn, th́ một thời gian sau đó anh bị
bắt vào tù và sẽ hối hận (thế giới
vật chất). Như vậy khi nhận
thức ở tâm linh th́ chuyển nghiệp rất nhanh,
đợi khi nó thể hiện ở cơi vật chất
rồi th́ cái thời gian thay đổi rất chậm
chạp, khó khăn, phức tạp và khổ sở.
Với đời sống con người có giới
hạn thời gian, sự nhận thức có
được khi hoàn cảnh xấu xảy ra đôi lúc
quá trễ. Con người có thể không c̣n đủ
thời giờ để cải thiện. Ngoài ra khi họ
tiến quá sâu trong hoàn cảnh xấu, trở lại
điểm ban đầu rất là gian nan.
Thí dụ như anh trộm khi ra tù muốn học lại
th́ tuổi cao, kiến thức đổi khác nhiều,
bạn bè cùng lứa đă có sự nghiệp thành công
hết. Anh ta phải khuất phục sự
chậm chạp của tuổi cao và ḷng mặc cảm
để đi học lại. Mặc
dù như thế, anh ta sẽ khó mà ngang hàng với các
bạn được v́ mất khoảng thời gian quá
lâu trong tù. Khi hiểu được
luật nhân quả th́ câu hỏi có định mệnh hay
không là tùy nơi con người. Định
mệnh có thật khi ta để lực nhân quả lôi
cuốn và thụ động để cái nhân ở tâm lư biến
thành cái quả ở thế giới vật chất.
Định mệnh không có khi ta chủ động biến
chuyển những tư tưởng (nhân) xấu thành
tốt và theo đó diễn biến
(quả) tốt lành sẽ đến với ta. Đôi lúc cái nhận thức nhân quả ở
thế giới vật chất rất khó khăn v́ có
người làm lành mà sao lại gặp ác, rồi họ
đâm ra chán nản và cho rằng không có luật nhân
quả. Sở dĩ như vậy v́ con mắt phàm
không thể nh́n thấu được quá khứ và không
hiểu được những khúc mắc của
nghiệp. Nhưng nếu có người nào
đói giữ được tâm hồn tha thứ buông
xả th́ mặc dù biến cố xấu đến
với họ đó, nhưng cái tác động trên tâm lư
tạo sự đau khổ giảm đi rất nhiều.
Th́ đó chẳng qua là một điều lành
trong một biến cố dữ. Hiểu
được luật nhân quả ở tâm th́ ta nhận
thức rơ hơn và ta sẽ thấy sự thay đổi
nhanh hơn. NHÂN-DUYÊN-QUẢ Nghiệp là
những biến cố vui buồn xảy ra trong
đời người. Nghiệp, ḍng sông nhân quả trong
cuộc đời con người, rất là phức
tạp. Nghiệp không phải đơn giản
như một cái máy, ta bấm nút (nhân) th́ máy hoạt
động (quả). Nghiệp có thể ví
như một ḍng sông và nhân quả là những phân tử (molecule)
nước lưu chuyển, tác động lẫn nhau trong
ḍng sông đó. Ngoài nhân-quả ra c̣n
yếu tố duyên nữa. Duyên là
những yếu tố ở không gian và thời gian giúp nhân
trở thành quả hoặc ngược lại ngăn
cản hoặc đ́nh trệ sự nối liền của
nhân quả, làm giảm sức mạnh của quả.
Sự sống đa dạng và sáng tạo là nhờ duyên. Như vậy duyên đóng vai tṛ điều
chỉnh nhân-quả. Thí dụ dễ
hiểu là khi ta gieo hạt lúa (nhân) trong đồng
ruộng ẩm ướt ph́ nhiêu (duyên) thi vài tháng ta sẽ
có những cộng lúa xanh mượt (quả).
Nếu có người lữ hành băng qua sa
mạc và làm rơi một hạt lúa th́ ngàn năm sau
hạt lúa đó vẫn là hạt lúa (nghịch duyên).
Nếu hạt lúa đó được gió thổi rơi
vào một nơi ẩm ướt trên sa
mạc th́ hạt lúa sẽ mọc thành cộng lúa nhưng
rất yếu ớt v́ thiếu phân bón. Như
thế ta thấy rằng cùng một nhân, qua nhiều duyên
khác nhau sẽ cho ta kết quả khác nhau. Thực
tế nhân quả không đơn giản như trên mà
hoạt động như một mạng lưới
nhện (web). Một nhân có
thể là khởi đầu của một chuỗi phản
ứng. Những yếu tố duyên tác động lên
chuỗi phản ứng đó để cho ra nhiều
kết quả ở nhiều từng lớp khác nhau.
Thí dụ: Có một người v́ ḷng tham (nhân) phá rừng
bán gỗ làm lợi nhuận cho riêng ḿnh. Trời
mưa, không có rễ cây hút nước (duyên) nên tạo thành
lụt (quả), loài chim mất môi sinh (duyên) dời đi
nơi khác (quả). Không có chim ăn (duyên) nên sâu
bọ lan tràn đồng ruộng
(quả). Không có cây hút thán khí (CO2) nên từ
đó khí hậu bị ô nhiễm. Một nhân thiếu
sáng suốt sẽ gây ra rất nhiều hậu quả tai hại về sau mà ta khó có thể
lường trước được. Giới luật là nhằm
biến đổi cái duyên để cho cái nhân tham, sân và si
không có cơ hội để biến thành quả dữ
(tham-ăn trộm, sân-giết choc,si-đau
khổ). Xuất gia là tránh xa những duyên có thể dẫn
đến quả dữ và gần gũi
với những duyên khuyến khích quả lành
được biểu hiện. Tuy nhiên thay
đổi duyên ở thế giới vật chất không
bền vững lắm. Thí dụ ḷng tham tiền có thể
biến thành tham chùa ḿnh được đẹp nhất,
sân (giận) có thể biến thành bực bội khi
đệ tử quên chắp tay xá ḿnh, và si là chấp vào
thời gian tụng kinh mà không hiểu ư kinh tạo ra
sự tranh chấp hơn thua. Cho nên vào
cảnh tịnh mà c̣n giữ mầm mống tham, sân, si th́
cảnh tịnh đó sẽ trở nên cảnh ưu
phiền. Thiền tông chú
trọng đến cái duyên ở tâm là tư tưởng. Tham, sân, si mà không
có tư tưởng để nuôi dưỡng chúng th́
dần dần sẽ tự tiêu ṃn. Cho
nên giữ giới nơi tâm th́ hiệu nghiệm hơn là
giữ ở thân hay cảnh. Nếu tâm
ta nuôi dưỡng sự bực dọc mà miệng th́
tụng kinh th́ khó có thể mà ta có được hạnh
phúc v́ càng tụng kinh, càng mệt mỏi th́ sự bực
dọc càng nhiều hơn nữa. Một trong
những phương pháp thiền là ta nhận thức
sự bực bội và từ bi hỷ xả phóng sanh nó ra theo từng hơi thở nhẹ nhàng rồi
dần dần sự bực bội đó sẽ tan
biến. Đó là một cách “tụng kinh
sống” hữu hiệu nhất. Tụng
kinh sống là tụng ư (thay v́ chữ) kinh trong từng
hơi thở, trong lúc đi, đứng, nằm và
ngồi. Nói một cách khác, thiền hay tụng kinh
sống là khi ta ư thức không tạo cái duyên nuôi
dưỡng tham, sân, si trong tâm ta. Nếu ta
không nuôi chúng th́ tự động chúng sẽ rời bỏ
ta. Rồi ta sẽ trở về sống với con
người hạnh phúc của ta. NHÂN QUẢ VÀ
THIÊN CHÚA GIÁO Mặc dù Thiên Chúa giáo không
đề cập nhân quả một cách trực tiếp
nhưng tất cả những câu chuyện trong Thánh kinh
đều khuyên răng con chiên hăy củng cố ḷng tin
Chúa, thương người, giúp đỡ xă hội th́
sẽ được cuộc sống hạnh phúc trong
vĩnh cửu. Nói một cách khác Chúa khuyên con chiên tạo
nhân lành (ḷng tin, thương người, tha thứ),
tạo duyên lành (xây dựng một xă hội lấy nền
tảng là sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau,
truyền bá công bằng bác ái cho nhiều người
được nhận thức) th́ kết quả cuộc
sống hạnh phúc sẽ dễ được thực hiện
trên thế gian này và nếu tất cả mọi
người làm được th́ sẽ được
hạnh phúc trong vĩnh cửu. Tuy nhiên có nhiều con chiên quá
cuồng tín dùng sức mạnh áp đặt niềm tin lên
kẻ khác và kết quả là hận thù và chiến tranh. Điều
dễ hiểu là v́ cái nhân là tham (muốn cá nhân ḿnh
được nhiều phước khi dẫn người
khác vào đạo), sân (bực tức khi người ta
không theo đạo ḿnh) và si mê (ngạo
mạn coi đạo ḿnh trên tất cả các đạo
khác) th́ kết quả sẽ là chiến tranh và đau
khổ. Vấn đề này không hẳn
xảy ra ở đạo Thiên Chúa mà c̣n gặp ở
nhiều tôn giáo khác. Đó là v́ con người mê
lầm không chữa trị cái tham, sân, si nơi chính ḿnh mà
muốn thay đổi thế gian. Muốn cái
quả khác cái nhân th́ không bao giờ có được.
Nếu có kẻ nào nói làm được,
hẳn là họ tự gạt chính họ, sống trong
ảo tưởng u mê. Tôn giáo cũng
như thuốc, trị đúng bệnh th́ thuốc hay, dù có
thuốc quư mà dùng sai bệnh th́ thuốc quư có thể thành
độc dược. V́ thế không thể nói
thuốc này hay hơn thuốc kia
được. Đạo Phật có thí dụ ngón tay (phương tiện) chỉ mặt trăng,
nếu ta ở nhiều nơi khác nhau th́ ngón tay sẽ
chỉ nhiều hướng khác nhau, nhưng khi nh́n
thấy mặt trăng (cứu cánh) th́ chỉ có một. Tác động trên
tâm lư của Thiên Chúa giáo là dùng t́nh thương người
và sự tha thứ tạo cái duyên lành làm giảm bớt
ảnh hưởng của hoàn cảnh xấu (quả). Nếu ta tin vào một
Thượng Đế công bằng bác ái ở bất
cứ mọi nơi và mọi lúc, th́ ta giao phó cho Ngài xử
phạt những bất công trong cuộc đời ta.
Như thế ta không mất ngủ bực tức t́m cách
trả thù hay t́m những lời nói đâm thọc xỏ
xiêng. Với ḷng tin đó ta sẵn sàng tha thứ kẻ
muốn ám hại ta, tâm ta được an
ổn và ta gieo rắc sự an ổn đó cho những
người chung quanh ta. Làm được như vậy,
mặc dù ta không mở miệng truyền giáo nhưng
sẽ có rất nhiều người theo
v́ họ mến ta. Như thế lời
cầu nguyện hữu hiệu nhất phát xuất từ
tư tưởng tha thứ thương yêu chớ không
phải từ miệng nói tiếng thương yêu
trống rỗng. Giáo đường chân thật
của một linh mục hay mục sư là sự an
ổn của con chiên khi họ cảm nhận
được t́nh thương và sự tha thứ chân t́nh
qua hành động của vị mục sư đó,
chớ không phải cái giáo đường bằng ngói,
bằng gạch. Cái giáo đường
vật chất không bao giờ làm ấm được ḷng
người. Ta không thể nào gieo rắc sự an lành
chung quanh ta nếu ta không có cái nhân
của sự an lành đó trong tâm ta. Ta có thể dối
chính ta chớ không thể dối với Thượng
Đế và luật nhân quả được. NHÂN QUẢ VÀ Y
HỌC Tuy nhân-quả xuất xứ
từ Phật giáo nhưng không hạn chế ở
phạm vi tôn giáo. Hiểu
được nhân quả giúp ta rất nhiều trong việc
pḥng ngừa bệnh tật. Trong Đông
Y có câu người y sĩ giỏi trị bệnh lúc mà bệnh
chưa phát triển. Y khoa hiện
đại cũng đồng ư với vấn đề
ngưà bệnh hơn là chữa bệnh. Cách tốt
nhất cho con người về vấn đề sức
khỏe và xă hội về vấn đề tài chánh là thay
đổi cuộc sống để ngừa bệnh. Muốn ngừa bệnh (quả) ta phải
hiểu cho ra lẽ những yếu tố gây ra bệnh
(nhân), t́m cách làm suy giảm những nguyên nhân gây ra bệnh,
t́m cách không tạo duyên xấu để cho hậu quả
bệnh dễ xảy ra và củng cố những duyên lành
để ngăn ngừa bệnh. Bây giờ ta hiểu nguyên nhân
của nhiều chứng bệnh là do vi
trùng (bacteria) và vi khuẩn (virus) có kích thước nhỏ
hơn vi trùng gây ra. Để làm suy giảm những nguyên
nhân tạo ra bệnh, những nhà thuốc sáng chế ra các
loại thuốc trụ sinh. Sự ỷ y có thuốc
trụ sinh để trị bệnh mà không cần pḥng
ngừa hoặc dùng thuốc trụ sinh một cách không phân
biệt đưa đến sự ra đời của
những siêu vi trùng (“super bugs”) có sức
kháng trụ sinh. Về phần bệnh nhân phải ráng ăn ở vệ sinh để không tạo
cái duyên cho những loại vi trùng xâm chiếm cơ thể
họ. Vaccine (chích ngừa) là cách pḥng ngừa
bệnh bằng cách dùng bộ kháng nhiễm (immune system)
để chống lại bệnh. Vaccine
là một cách thay đổi duyên làm cơ thể không
thuận cho sự phát triển của bệnh.
Một cách ngừa bệnh khác nữa là ta ăn
ở vệ sinh, t́m cách tránh những nơi dễ gây ra
bệnh tật là góp phần vào sự củng cố
những duyên không thích hợp cho bệnh phát triển. Thực tế, ta không thể nào diệt trừ
được tất cả những nhân tạo bệnh
mà cách dễ dàng nhất là biến đổi cái duyên không
thuận cho bệnh (quả) phát triển. Con
đường trị bệnh bằng cách diệt trừ
nhân một cách hoàn toàn rất nguy hiểm v́ có thể
đưa đến sự mất cân bằng môi sinh và có
thể tạo nhiều mối hiểm nguy khác. Thí dụ như khi ta đi du lịch ở
những nước khác dễ bệnh tiêu chảy v́ ở
điều kiện ta sống không có loại vi trùng đó
(nhân bị diệt) nên cơ thể ta không có chất
miễn nhiễm, dễ sanh ra bệnh. Đứng
trên phương diện năng lượng (sức
lực, thời gian, tài chánh), dùng duyên để pḥng
ngừa quả là áp dụng năng lượng một cách
hữu hiệu nhất. NHÂN QUẢ VÀ TÂM
LƯ HỌC Stress, sự
căng thẳng tinh thần, là vấn đề lớn
của thời đại. Stress có thể coi như cái cửa mở cho
nhiều bệnh tật vào thân thể ta. Những triệu
chứng khởi đầu của stress là lo âu, bực
bội và mất ngủ. Ngoài ra nhức đầu,
buồn nôn, mất ăn, cao máu với nhịp tim đập nhanh cũng có thể là một
triệu chứng của stress nữa. Thửơ xưa,
Đức Phật có cho một thí dụ rất thích
hợp với stress ngày nay. Thí dụ rằng
có một người bị mũi tên bắn bị thương.
Người đó lo âu muốn biết mũi tên này từ
đâu tới, ai bắn, lư do nào bắn, rồi lo sợ
cho tính mạng, không biết vết thương như
thế nào... người đó cứ măi lo mà quên t́m cách tháo
gỡ mũi tên ra. Tính chất của lo âu là
nó không bao giờ chịu dừng ở hiện tại mà
lại có chiều hướng lẩn quẩn ở quá
khứ hoặc tương lai. Chính v́ vậy mà sự
lo âu ngày càng tăng v́ khi tư tưởng lẩn quẩn
ở quá khứ và tương lai th́ ta sẽ không giải
quyết được vấn đề và t́nh trạng vô
định đó tạo nên cái duyên làm cho lo âu càng lớn
dần. Một khoa tâm lư trị liệu
(psychotherapy) trị stress là Cognitive behavioral psychotherapy,
tạm dịch là tâm lư trị liệu qua nhận thức.
Ta nhận thức ta có những tư tưởng sai
lầm dẫn đến sự lo âu đau khổ (1), quán
xét kỹ càng rằng những tư tưởng đó không
có liên hệ ở thực tế (2), sau cùng thay thế vào
đó những tư tưởng thích hợp với
thực tại hơn (3). Khi nhận thức thích hợp
với thực tại th́ ta sẽ t́m được
biện pháp giải quyết vấn đề một cách
hữu hiệu và từ đó nhẹ gánh lo âu..
Thí dụ anh A có triệu chứng hay lo (general anxiety
disorder). Khi bị chủ sở phê b́nh, anh về ngủ
không được, liên tưởng đến ngày mai ḿnh
sẽ mất việc, không có tiền trả tiền nhà,
vợ anh sẽ bực bội bỏ anh (1)... Qua khâu tâm lư
trị liệu, anh kiểm duyệt lại thực tế
th́ không thấy có dấu hiệu nào chủ sở sẽ
đuổi anh, chủ anh chỉ muốn anh sửa
khuyết điểm nhỏ mà thôi, vợ chồng lúc nào
cũng ḥa thuận(2)... Khi
nhận thức như vậy, anh cảm thấy yên tâm và
hiểu rằng ḿnh có phản ứng quá đáng (3). Khi nh́n ở khía cạnh nhân duyên quả, th́ khi anh
nhận thức rằng cái nhân sai lầm không quan trọng
lắm, không để những tư tưởng lo âu
thổi pḥng sự thật (nghịch duyên), và anh t́m cách
học hỏi trau dồi nghề nghiệp th́ kết
quả sẽ tốt đẹp. Như
thế hiểu được nhân quả th́ cuộc
sống ta sẽ nhẹ gánh lo âu. Lời Kết: Nhân quả không
phải là một khái niệm tôn giáo (dogma) mà là một quy
luật thiên nhiên (natural law) ảnh hưởng thế
giới nội tâm và thế giới vật chất. Nhân quả c̣n là
một lực (force) gắn liền hai biến cố với
nhau qua không gian và thời gian. Ta khó có thể thay đổi
nhân ở quá khứ, nhưng điều dễ làm là thay
đổi duyên ở hiện tại để quả
dữ khó có thể biểu hiện được. Ở
thế giới vật chất, duyên lành là bạn tốt,
nơi chốn yên tịnh (chùa, tu viện, thiền
đường, học đường...)..
Ở thế giới tâm lư, duyên lành là ư
muốn học hỏi, trau dồi trí tuệ, cố
giữ ḷng nhân từ, bác ái và tha thứ. Gần duyên lành th́ quả xấu khó thể
hiện hoặc thể hiện một cách yếu ớt
hơn. Nếu ta c̣n
giữ tâm tham, sân, si làm nhân và nuôi dưỡng những
tư tưởng tham, sân, si (ác duyên) th́ không bao giờ
biến đổi được cuộc sống hay xă
hội một cách tốt lành được (quả). Cảnh lúc nào cũng hiện theo tâm. Người mang tâm
xấu lên thiên đàng sớm muộn ǵ cũng biến
cảnh thiên đàng thành địa ngục. Hiểu được nhân –
quả th́ ta nắm giữ được ch́a khóa mở
cửa tự do trong đời ta và giúp ta làm chủ
lấy cuộc đời. Không hiểu nhân quả th́ ta
sẽ sống trong mê tín dị đoan hay trong sự lo âu
của cuộc sống vô định, bấp bênh. Hiểu
được nhân quả giúp ta định hướng
dễ dàng và có một hướng đi và một quan niệm
sống vững chắc trước mọi hoàn cảnh khó
khăn. Thái |