CHỈ LÀ MỘT NẮM TRO

 

 

          “Chỉ là nắm tro” không phải là một bài kinh trong kho tàng Phật điển, mà nó là một thực tế. Thực tế ấy tôi đă chạm mắt, đă sờ mó được. Từ đó tôi có một cảm nhận riêng, xin được chia sẻ với tất cả các bạn đồng tu nắm tro này.       
V́ là nữ nên Ḥa Thượng sắp xếp ở thiền viện ni tức Linh Chiếu. Cụ lớn tuổi nên không nhập chúng, mà ở cái thất trong khuôn viên thiền viện do Ḥa Thượng cất cho. V́ thế chúng tôi xem cụ như một thiền sinh ni của viện. Cụ rất siêng tu, không bao giờ lơi lỏng, tự lực lo cho ḿnh mọi việc, ít làm phiền đến chư Ni. Năm 91 tuổi cụ vẫn tự quét nhà, rửa chén, giăng mùng, không phải nhọc nhằn ai, sáng suốt minh mẫn và rất dễ thương. Đến 92 tuổi cụ mất, ra đi hết sức nhẹ nhàng, không giật ḿnh giật mẩy, không làm kinh động đến đại chúng.       
Khi được tin cụ yếu, tôi sang thăm. Cụ nh́n tôi quá đổi hiền lành rồi khép nhẹ đôi mắt, đi hồi nào tôi không hay. Thiền viện lo hết chuyện hậu sự. Hỏa táng xong, buổi chiều tôi cùng chư ni đi lấy cốt. Phần xương cho vào hũ đem về nhập tháp Liên Hoa tại Thường Chiếu, c̣n lại phần tro quư cô hốt vô bao ni lông đem đến cầu Long Sơn - Bà Rịa.         
Tại đây tôi được chư huynh đệ chỉ cho dăy núi Long Sơn thật trầm mặc nằm sâu lắng bên trong. Ḍng sông trước mắt cũng trôi chảy yên ả quá chừng, làm như không có chuyện ǵ phải buồn phải vui. Sạch và trong  vắt. Tôi thật bất ngờ về một miền đất gần gũi với ḿnh. Ở đó có một ḍng sông tinh khiết, yên tĩnh, như không hề bận tâm tới chuyện phố thị rộn ràng bên ngoài.         
Huynh đệ chia nhau nắm tro sau cùng của người pháp lữ cao niên rải xuống ḍng sông. Nắng chiều óng ánh chiếu xuống màu áo lam, màu xám tro, màu sông nước, màu trái tim huynh đệ lần chia tay. Đẹp và cảm động vô cùng. Khi tôi bốc nắm tro rải xuống, bụi tro bay bay trong hư không, từ từ tan loảng rồi ḥa vào sông nước. Về đến thiền viện, ngồi lặng lẽ trong pḥng, tôi như ngộ ra một điều:
Đời người chỉ là nắm tro.        
Thật ra chuyện này chúng ta ai cũng biết. Tôi cũng biết. Nhưng măi đến khi chính bản thân ḿnh cầm nắm tro của bà cụ, mà trước đó ḿnh ngồi một bên, c̣n nh́n, c̣n nói, c̣n cười gọi tên… bây giờ lại là nắm tro, cũng do chính tay ḿnh đem gởi xuống ḍng sông.

 

Bỗng dưng tôi cảm nhận sâu sắc về một đời người, chung cuộc của chiếc thân tứ đại, ai cũng như ai, chỉ là nắm tro. Đă là nắm tro th́ không có nắm tro nào sang hơn nắm tro nào, không có nắm tro nào vinh quang hơn nắm tro nào, không có nắm tro nào ti tiện hơn nắm tro nào. Tự nhiên bao nhiêu muộn phiền, toan tính trong ḷng rớt xuống. Bởi v́ ḿnh đă là nắm tro th́ không có lư do ǵ đi phiền năo các nắm tro khác.  

     
Chúng ta ít nhiều đă đánh mất cả một quăng đời của ḿnh trong phiền lụy, khổ đau. Cuối cùng tứ đại này không mang theo được v́ nó chỉ là nắm tro, chỉ mang theo nghiệp mà thôi. Sao ta không tự hỏi v́ cái ǵ mà ta tạo nghiệp, v́ ai mà ta tạo nghiệp ? V́ nắm tro mà tạo nghiệp ! Có vô lư không. Phải chi v́ vàng v́ ngọc ḿnh tạo nghiệp cũng được đi, nhưng v́ nắm tro mà tạo nghiệp th́ oan uổng quá. Tạo nghiệp để mưu cầu hạnh phúc, không ngờ lại chuốt quả khổ đau. Bởi v́ ranh giới giữa hạnh phúc và khổ đau nằm ở chỗ nào, chúng ta không biết được.       
Chẳng hạn trời đang nóng ḿnh thèm ăn kem. Ăn được một cây kem thật tuyệt vời, có thể gọi là hạnh phúc. Ăn thêm một cây nữa, cũng c̣n hạnh phúc. Thêm một cây nữa th́… hết hạnh phúc, bởi v́ nó sắp nôn ra đây nè. Nếu ăn kem là hạnh phúc th́ càng ăn càng hạnh phúc, ăn một cây hạnh phúc chỉ có một, ăn hai cây hạnh phúc nhân đôi, ăn ba cây hạnh phúc nhân ba. Tại sao ăn ba cây lại hết hạnh phúc? Th́ ra chúng ta đă hiểu lầm về hạnh phúc. Hạnh phúc là ǵ? Là vừa ḷng. Tạm định nghĩa ngắn gọn như vậy đi.         
Ḿnh cho rằng cái ǵ vừa ḷng, thích thú, thỏa măn là hạnh phúc, mà không biết rằng cơ thể chúng ta, tâm tư chúng ta không bao giờ thỏa măn được hết. Khi tham là cứ muốn thêm, mà sự tiếp nhận của thân tứ đại có chừng mực. Đến lúc nó không tiếp nhận được nữa, mà nghiệp tham vẫn lôi kéo, thế là có sự xung đột giữa thân và tâm. Như vậy là mất hạnh phúc.


Phật dạy các pháp chỉ là duyên sinh thôi, chứ không có cái gọi là chân thật trong đó.
Chúng ta luôn mong muốn ḿnh sống th́ phải được vừa ḷng hoài, nhưng các duyên không biết chuyện ấy. Nó cứ đến cứ đi, cứ họp cứ tan theo cách của nó. Ḿnh không vừa ḷng th́ thôi, nó không chiều ḿnh. Cho nên rốt lại hạnh phúc không có thật. Nó chỉ là ảo giác của cảm thọ.

       
Cảm thọ có ba:        
- Một là thọ khổ. Khi gặp những cảnh trái ư, nghịch ḷng chúng ta không thích, gọi là thọ khổ.         
- Hai là thọ lạc. Gặp những cảnh vừa ư thuận ḷng, chúng ta thích thú sung sướng, gọi là thọ lạc.        
Ba là thọ không khổ không lạc. Khi gặp cảnh b́nh thường, chúng ta cũng thấy b́nh thường, gọi là thọ không khổ không lạc.


Trong ba cái thọ này, có một số người thích thọ b́nh thường. Tại sao? V́ họ bảo có vui th́ có khổ. Do sợ khổ nên không dám nhận vui. Lo xa như thế. Th́ ra v́ né cái khổ mà tránh cả cái vui, chớ không phải giác ngộ cái vui tạm bợ của thế gian vốn không thật. Do đó mà chọn thọ b́nh thường. Nhưng Phật nói rơ thế này: Ba cái thọ đó đều vô thường, ngay cả thọ b́nh thường cũng không thường.

 
Tóm lại, có thọ là có khổ. Chẳng hạn bây giờ ḿnh không buồn cũng không vui, nhưng có chuyện buồn tới ḿnh sẽ buồn. Chúng ta chọn cái b́nh thường, nhưng ngoại duyên không măi b́nh thường được, nó luôn thay đổi. 
Ngoại duyên đến từ bên ngoài, chúng ta không thể chủ động được. Trong toàn bộ đời sống, con người chỉ chủ động một phần, c̣n lại phần lớn là bị động bởi các duyên bên ngoài. Như thời tiết tốt chúng ta thấy b́nh thường, dễ chịu, nhưng nếu nước lụt lên th́ sao? Khổ liền. Các tỉnh miền Trung, miền Tây Nam bộ lụt hoài, dân ḿnh cứ phải sống theo con nước, hoàn toàn không thể chủ động được. Đâu có ai muốn lụt, nhưng nước vẫn cứ dâng. Đó là duyên bên ngoài. Đến duyên bên trong lục phủ ngũ tạng của chúng ta cũng thế. Có ai muốn bệnh đâu, mà sao vẫn cứ bệnh. Già có bệnh của già, trẻ có bệnh của trẻ. Ngày nay trẻ đă bệnh ké những bệnh của người già. Như vậy thân của ḿnh mà ḿnh nói nó không nghe, biểu đừng bệnh mà vẫn cứ bệnh. Rơ ràng chúng ta mất quyền tự chủ đối với thân tứ đại này rồi. Cho nên Phật bảo thân này không phải của ḿnh.
Đă không phải của ḿnh, tại sao người ta nặng nhẹ một chút ḿnh lại nổi sùng? Chúng ta khổ v́ chúng ta lầm. Đơn giản vậy thôi. Hàng xóm mích ḷng nhau là v́ hiểu lầm.
Phật nói
thân này là duyên sinh, do bốn chất đất nước gió lửa hợp thành, đó là phần thân, c̣n phần tâm là do nghiệp dẫn. Chúng ta tạo nghiệp, rồi nghiệp quay trở lại lưu dẫn chúng ta thọ sanh. Cho nên đời quá khứ chúng ta tạo nghiệp ǵ nhiều, đời sau sanh ra rất quen thuộc với nghiệp ấy. Thương ai nhiều, ghét ai nhiều, nhắc ai nhiều th́ đời sau được gặp lại thôi.        
Nếu đời quá khứ ta đă là người tu, đời này sanh ra thấy chùa muốn tu ngay. Đời quá khứ là ca sĩ, đời này nghe nhạc là hát. Hát rất hay mà không cần ai chỉ vẽ, v́ đă huân tập rồi. Nhiều thiên tài xuất hiện dưới dạng thần đồng, người ta bảo là thiên tư, thật ra nó là ḍng nghiệp được nối tiếp từ đời trước.          

Tuy nhiên, đạo Phật bảo nghiệp cũng không thật, có thể thay đổi được. Bởi v́ nó do duyên tạo tác, luôn thay đổi sinh diệt. Nếu thật th́ nó c̣n hoài và không thể sửa đổi. Song nó luôn biến dịch nên chúng ta có thể thay đổi được. Khi mê chúng ta tạo nghiệp xấu, nhưng tỉnh rồi không tạo nghiệp xấu nữa, mà tạo nghiệp thiện. Ví dụ chúng ta mê nên có tham sân si, nếu sáng suốt tỉnh táo ta sẽ không thèm tham sân si nữa. Điều đó có người đă làm được, như các bậc thánh nhân, cao tăng xưa cũng như nay. Nhờ thế chúng sanh mới có thể tu thành Phật.        
Có người thấy tiền thích, có người thấy tiền không thích v́ họ không có nhu cầu. Nhu cầu thường không nhất định, do quan niệm và sở thích của mỗi người mà phát sinh. Muốn bớt tham th́ bớt nhu cầu. Muốn không tham th́ không có nhu cầu. Vậy thôi. Cho nên tham tiền hay không tham tiền, chúng ta làm được, nếu muốn. Giữa hai nghiệp thiện và ác, ḿnh muốn làm ác cũng được, muốn làm thiện cũng được. Làm ác th́ nghiệp ác dẫn đi trong đường ác. Làm lành th́ nghiệp thiện dẫn đi trong đường lành. Tất cả đều do chúng ta quyết định.
         
Có người thắc mắc, khi chết rồi đi về đâu ai mà biết được 
 Về vấn đề này, chúng ta có thể lư giải sự có mặt của nghiệp qua những ǵ ḿnh thấy biết trong đời hiện tại.
Như một gia đ́nh, cha mẹ sanh ra ba đứa con. Chúng được chăm sóc như nhau, mà ba đứa không đứa nào giống đứa nào. Chúng khác nhau trên mặt mày, trên tánh t́nh. Tại sao cùng cha cùng mẹ, cùng sống trong một môi trường, cùng nhận sự yêu thương chăm sóc như nhau mà lại khác nhau? Nhiều đứa bé mới hai ba tuổi đă thể hiện những đường nét riêng của nó. Đường nét riêng này ở đâu ra?  Đâu có chuyện khơi khơi mà ra, chứng tỏ nó có chủng tử nghiệp từ đời trước. Thêm điều này nữa, chúng ta vừa thấy người nào đó th́ mến liền, mặc dù chưa nói chuyện với nhau lần nào. Người ấy có thể dễ mến với ḿnh, nhưng chưa hẳn dễ mến với người khác. Cũng thế, trong trường hợp đối nghịch. Vừa thấy người đó lần đầu, bỗng nhiên ta dị ứng ngay, th́ biết oan nghiệp tới rồi. Cho nên lúc ra đi, tâm ḿnh b́nh an không vấn vương việc ǵ, không sợ hăi việc ǵ, không lưu niệm việc ǵ th́ đi thanh thản, theo phước duyên thọ thân sau tốt đẹp. Ngược lại, trước lúc ra đi chúng ta sợ hăi, hoảng loạn, lo nghĩ đến con cháu th́ thọ thân sau trong sự trói buộc của nghiệp lực đời trước.       

Người Phật tử hiểu đạo rất sợ tạo nghiệp. Thân này không giữ được v́ nó là nắm tro, nhưng nghiệp sẽ quyết định cho vận mệnh nhiều đời của ḿnh. Chúng ta không đầu tư vào chuyện chăm chút nắm tro, mà lo chuyển hóa tu tập ba nghiệp của ḿnh. Hơn thua nhau từng tiếng là tạo nghiệp bất thiện. Từ đó lưu vào tâm thức những h́nh ảnh căm tức sân hận, nguyện gặp lại để trả th́ rất nguy hiểm. Đó là một trở ngại trong tiến tŕnh tái sinh, nếu chúng ta chưa giải thoát được.      

Ở đây mục đích của người tu là giải thoát sanh tử, nhưng chúng ta không dám đi quá xa với mức độ tu tập thực tế của ḿnh, chỉ mong quư Phật tử chuyển được nghiệp bất thiện thành nghiệp thiện, định tĩnh trước phút lâm chung để có được hướng đi tốt. Sức mạnh của nghiệp rất đáng sợ. Ví dụ người nữ có tật hay cằn nhằn. Thật ra họ không muốn cằn nhằn nhưng khi đă thành nghiệp rồi, vừa gặp chuyện không hài ḷng th́ cằn nhằn. Cằn nhằn mà không hay ḿnh đang cằn nhằn. Cho nên mới nói bị nghiệp lôi, không kiềm chế được. Cũng như bên nam có tật uống rượu. Uống quen không uống thấy buồn, thấy thèm. Đặc biệt những lúc căng thẳng, bức xúc là đi kiếm rượu uống. Nhiều vị dư biết uống rượu là uống chất độc mà đă nghiền rồi th́ không cưỡng lại được.

       
Thế nên vị nào lỡ ghiền rượu mà muốn bỏ th́ xin đừng đi ngang quán rượu. Quán rượu đâu có tay mà kéo quư vị, nhưng cái nghiệp nó sẽ kéo. Nghiệp là ǵ? Là thói quen. Thật đơn giản mà không đơn giản chút nào. Tại sao? Như nghiệp uống rượu, nghiệp đánh bài, nghiệp hút thuốc… muốn bỏ không phải là chuyện đơn giản. Lại nữa, chúng ta không ai thích phiền năo nhưng luôn luôn sống trong phiền năo.     

  
Tại sao? Tại quen rồi, bỏ không được. Ai bắt chúng ta phiền năo? Ta không có câu trả lời v́ ta không dám nhận lỗi về ḿnh. Bây giờ muốn giải trừ phiền năo, nhất định phải truy nguyên cho ra nguồn gốc của nó. Phiền năo từ ḿnh mà ra. Do si mê tăm tối nên ta tạo nghiệp, nghiệp quay trở lại làm tăng trưởng vô minh. Cứ thế xoay vần gốc vô minh càng lớn, nghiệp lực càng mạnh, chúng ta càng bị nó sai sử, chớ không ai bắt ḿnh cả. Đối với phiền năo, nhà Phật gọi nó là giặc. Muốn trừ giặc, trước tiên ta phải phát hiện nó thật sớm, sau đó kiên quyết đuổi sạch, không khoan nhượng mới yên ổn được. Vừa nổi nóng lên ta phát hiện ngay, một tên giặc vừa ló đầu ra, dùng gươm trí tuệ chém nhanh. Tự nói giận làm ǵ cho mệt, không thèm giận. Đó chính là tu tập, là chuyển hóa nghiệp. Việc này cũng phải có lực, nhà Phật gọi là đạo lực. Muốn có đạo lực mạnh phải liên tục huân tu, không đợi gặp cảnh mới tu.   

 
Cái gan của chúng sanh lớn tợn lắm, rất sợ khổ mà chuyên lao vào nhân khổ. Phật nói Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả. Nếu thấy phiền năo mệt quá th́ đừng thèm phiền năo. Thí dụ hồi xưa ḿnh nói chuyện với ai, bất đồng ư kiến là bắt đầu nổi sùng trong bụng, tức thiệt là tức. Bây giờ thấy tức mệt quá ḿnh không tức nữa. Vậy thôi. Ngoài cách đó ra không c̣n cách nào hữu hiệu hơn. Có người bảo làm không được. Được chứ! Cứ không thèm tức thử coi ai làm ǵ ḿnh. Thật ra chúng ta không chịu buông cái sân giận mà lại đuổi theo nó, chơi với nó, ḥa nhập làm một với nó. Trong tâm cứ bám cứng theo đối tượng làm nhân cho sự tức tối th́ làm sao hết tức được.

    
Như có vị ngồi đây trong ḷng đang buồn bực chuyện riêng. Lẽ ra hôm nay không đi nghe pháp mà tại sùng bà hàng xóm quá, đi cho khuây khỏa. Nếu chúng tôi chia sẻ với quí vị rằng đừng thèm sùng bà hàng xóm đó nữa, bỏ đi. Quí vị đồng ư thực tập như vậy. Bà ta đâu có nhảy vô bụng của quí vị cản lại điều ấy. Thành thử do ư chí, do quyết định sáng suốt, do sự thực hành của chúng ta thôi.
         
Tất cả trạng thái tâm khổ đau là do ta tạo ra, ta lầm chấp. Người kia có quyền thích ngọt, ḿnh có quyền thích mặn, không thể bắt buộc người kia thích giống ḿnh. Cũng không v́ người kia thích ngọt, mà ghét người ta. Điều này vô lư. Tất cả các pháp do duyên sinh, không có duyên nào giống duyên nào, chỉ giống nhau ở chỗ chúng đều là tướng sinh diệt. Tướng sinh diệt th́ không chân thật, có ǵ ta lấn cấn với nhau hoài, cuối cùng không ai hơn ai, cũng không ai tồn tại.

       
Chỉ một thứ tồn tại gây khó cho ḿnh, đó là nghiệp ta đă tạo. Thế mà ta lại quên, cứ tạo hoài. Chính nghiệp tham sân si quyết định cuộc đời tiếp tục của chúng ta. Trong một đời này ḿnh khổ đă ngán rồi, bây giờ gieo nhân để thọ thân nữa th́ được khổ nữa. Một lần có thân là khổ, Phật bảo bốn thứ khổ cơ bản của thân là sanh lăo bệnh tử, không ai tránh khỏi. Đó là chưa kể tới thành bại hơn thua trong cuộc đời. Thật ra cái chết không đáng sợ, nhưng v́ ḿnh mê thân nên sợ chết. Sống th́ khổ mà lại không muốn chết. Vậy chớ sống để làm ǵ? Sống để khổ. Có lạ lùng chưa!         
Trở lại vấn đề nắm tro. Khi đang sống đây, dù chúng ta thành công vinh quang cách mấy, cũng không giữ được. V́ sự thành công ấy phải gắn liền với chủ nhân, mà chủ nhân sẽ không c̣n nữa để nhận sự vinh quang kia. Chủ nhân theo vô thường mà trở thành nắm tro. Tội ǵ v́ một nắm tro mà ta khổ triền miên như vậy. Sao không ngay đây thanh thản, hạnh phúc, b́nh an, để khi trở về với cát bụi, ta chỉ c̣n lại sự thanh thản, b́nh an chớ không phải là nghiệp thức mênh mang. Giả như c̣n nghiệp chúng ta cũng thọ nghiệp lành, tái sanh vào cơi lành. Nếu hết nghiệp chúng ta không c̣n đi trong sanh tử, vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau.       
Chúng ta cũng nên như thế, sống giữa trùng trùng duyên sinh tương đối, thân này c̣n không giữ được huống là mọi việc chung quanh. Cho nên người tỉnh ngộ sớm chừng nào th́ khỏe chừng đó. Tỉnh ngộ chậm hoặc không khéo tỉnh ngộ th́ sẽ khổ đến nhắm mắt. Chẳng những khổ đến nhắm mắt mà cho tới lúc tái sinh vẫn tiếp tục khổ. Chúng ta buông xuống hết những buồn phiền, giận hờn, thương ghét để sống đúng trở lại bản vị của ḿnh. Bên cạnh chùm duyên sinh c̣n có tánh giác.

         
Tánh giác ấy chúng ta hiện có đủ, b́nh đẳng như nhau và vĩnh cửu bất sanh bất diệt. Chúng ta luôn luôn nghe, luôn luôn thấy rơ ràng, đó là tánh Phật thường biết nơi mỗi chúng sanh. Tánh này không ưu tư, không lao lự toan tính, thường tại như vậy. Chỉ khi buông hết các duyên, ta mới nhận ra ḿnh có tánh giác hiện hữu. Bấy giờ c̣n thân tứ đại cũng vui mà không c̣n thân tứ đại cũng vui, sống cũng vui mà chết cũng vui.

         
Trong nhà Phật, người tu giỏi là người buông xả giỏi. Buông tới lúc trong ḷng trống rỗng, không c̣n ǵ để buông nữa th́ sống chết tự tại, vĩnh viễn an vui. Đó là những ǵ chúng ta cần chia sẻ với nhau.         

 Ni sư Thích Nữ Hạnh Chiếu