Cái chết oan khuất của nhạc sĩ Minh Kỳ
“Nha Trang là miền quê hương cát trắng
Có những đêm nghe vọng lại, ầm ầm tiếng
sóng xa đưa
Nha Trang cánh đồng bao la bát ngát
Hương quê dâng lên ngào ngạt, hòa cùng sức sống yên
vui ...
Ai ơi, người về cho ta nhắn với
Nha Trang quê hương dịu hiền, ngàn đời lòng tôi mến
yêu ...”
Ai đã sinh ra và lớn lên ở Nha
Trang, hoặc đã từng ghé lại đây đôi lần, đều
không quên bài hát dễ thương này, mà cả một thời gian gần
hai thập niên, đài phát thanh Nha Trang đã dùng làm nhạc hiệu
mở đầu.
Cuối tháng 3/75, Nha Trang bị nhận chìm trong làn sóng
đỏ. Người Nha Trang đã cùng chịu chung số phận.
Kẻ bị giết, người bị tù đày, gia đình, bè
bạn, thầy trò, chia ly tan tác. Số phận của
nhạc sĩ Minh Kỳ, tác giả bài hát này (cùng nhiều bản
nhạc về Nha Trang khác nữa) cũng đã gắn liền
với định mệnh đau thương của thành phố mà ông
đã được sinh ra, hết lòng yêu thương và đã gởi
trọn lòng mình qua những dòng nhạc thiết
tha trìu mến đó. Ông đã bị giết. Cái chết
thê thảm và oan khuất của ông có lẽ được ít người
Nha Trang, - dù còn ở trên quê nhà, hay tha phương khắp chốn
- biết đến.
Người viết bài này, có cái cơ duyên được ở chung cùng một
trại tù với ông, và cũng đã được tâm sự
cùng ông một vài ngày trước khi ông chết.
Đầu tháng 3/75, sau khi Ban Mê Thuột mất,
những đơn vị từng sống chết với Cao Nguyên
có lệnh triệt thoái. Tôi theo đơn vị, chỉ còn một
phần tư quân số, lần lượt “di tản chiến thuật”
vào Cam Ranh, rồi Vũng Tàu để tái tổ chức, trước
khi tham dự những trận đánh cuối cùng “cô đơn và buồn
tẻ” ở những địa danh xa lạ: Cần Giuộc,
Bến Lức, thuộc tỉnh Long An, ngăn bước chân địch
quân đang ồ ạt kéo về vây hãm Sài Gòn.
Ngày 28/4/75, tôi và cả vợ con, theo lời hẹn của
người bạn chí thân, là SQ Hải Quân, có mặt tại Bến
Bạch Đằng. Nhưng đến giờ chót, trước sự ngỡ
ngàng và tức giận của người bạn có lòng,
tôi quyết định không cùng vợ chồng anh ấy xuống
tàu di tản. Có lẽ anh không hiểu được là tôi cũng
đã khổ tâm biết dường nào để có cái quyết
định “sống chết” ấy, mặc dù tôi biết trước
là rồi tôi cũng phải trả một cái giá, chắc
không nhỏ. Tôi không đành lòng bỏ lại những đồng
đội đã theo tôi từ những quê quán miền Trung, mà
giờ đây đã trở nên xa tít mịt mờ trong tay giặc,
và nhất là cha tôi, người cha đã làm gà trống nuôi con
từ lúc tôi mới lên ba, mà tôi được tin là ông đã bị
bắt và đang bị giam giữ ở đâu đó ngoài Nha-Trang. Tôi
không thể xa ông trong hoàn cảnh khốn cùng này.
Điều đáng ân hận nhất là, dù ở lại để chấp
nhận mọi điều, nhưng tôi cũng không bao giờ có cơ
hội gặp lại cha tôi. Ông đã chết trong trại
cải tạo Đá Bàn, cuối tháng 6/76, và đúng ngay vào cái đêm tôi
bị chở bằng xe “bịt bùng” từ trại tù An Dưỡng
Biên Hòa ra bến Tân Cảng để xuống tàu Sông Hương
ra Bắc. Mãi gần năm năm sau tôi mới nhận được
tin buồn.
Trại tù An Dưỡng Biên Hòa, cũng chính là nơi tôi
đã gặp nhạc sĩ Minh Kỳ, và đã tâm
tình cùng ông một ngày trước khi ông chết.
Tôi trình diện tại Trường Đại Học Kiến
Trúc, bị đưa lên nhốt tại trại tù binh Tam Hiệp.
Một tháng sau được chuyển đến trại tù An Dưỡng
Biên Hòa, nằm bên cạnh phi trường quân sự Biên
Hòa. Trại An Dưỡng này, trước là một khu quân sự,
về sau được chỉnh trang lại để tiếp nhận
những quân nhân tù binh của ta được miền Bắc trao
trả theo hiệp định Paris. Họ được nghỉ
ngơi, bồi dưỡng cả sức khỏe lẫn tinh thần
ở trại An Dưỡng này trước khi trở về đơn vị
cũ và gia đình.
Đến trại này, tôi gặp những anh em ở đây từ
trước cùng một số mới được chuyển từ
các trại khác tới. Gồm đủ các quân binh chủng, kể
cả những sĩ quan biệt phái về các Bộ, và Cảnh
Sát. Trong số này có nhạc sĩ Minh Kỳ. Tôi ở Nhà 1,
còn anh Minh Kỳ ở Nhà 3 (?), cách nhau khu nhà bếp (gọi
là hậu cần).
Cũng như những người Nha Trang khác, lớn lên vào những
năm giữa thập niên 50, đầu thập niên 60, tôi thuộc
lòng những bài hát Nha Trang của nhạc sĩ Minh Kỳ,
nhưng chưa hề biết tên thật và cũng chưa được hân
hạnh gặp ông. Trong Nhà 1, tôi nằm bên cạnh hai anh bạn
tù lớn tuổi hơn tôi. Một anh từ Trường Chỉ
Huy Tham Mưu, một anh làm ở Nha Quân Pháp.
Hai anh này rất tốt bụng và vui tính, có quen biết nhạc
sĩ Minh Kỳ. Biết tôi là dân Nha Trang, nên có lần anh
đã giới thiệu tôi với anh Minh Kỳ.
Nhạc sĩ Minh Kỳ lớn tuổi hơn tôi nhiều, nên
tôi gọi ông bằng Anh và xưng em.. Có lẽ bản tính của
anh vốn thầm lặng, ít nói, và đặc biệt trong hoàn
cảnh như vừa trải qua cơn ác mộng, chưa biết ngày
mai sẽ ra sao này, anh lại càng ít nói hơn. Gặp anh vài ba lần,
tôi chỉ nói lên lòng hâm mộ của tôi về những
bài hát Nha Trang, mà với tôi bây giờ nó lại là những kỷ
niệm vô giá. Anh thường chỉ trả lời tôi bằng
một nụ cười buồn.
Một đêm, cuối tháng 8/75 (31/08/75?),vào khoảng 09:30 tối,
cả trại tù đang chìm trong bóng đêm với cả ngàn
người tù đang nằm thao thức, bởi tâm tư còn nặng
trĩu lo âu, đang chờ đợi những điều bất trắc
nào đó sẽ đến với số phận mình, bỗng
một tiếng nổ long trời kèm theo những tiếng
la thất thanh, và rồi tiếng còi báo động, tiếng
chát chúa trên loa phóng thanh, lệnh cho tất cả “cải tạo
viên” nằm yên tại vị trí, kẻ nào bước ra khỏi
nhà sẽ bị bắn tại chỗ.
Khi đám tù chúng tôi chưa hết hoang mang, thì tiếng xích sắt
xe tăng T 54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia nhau bao
vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn
lưỡi lê, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí túa
vào từng nhà, kéo cơ bẩm lên đạn, quát tháo chúng tôi đứng
dậy ngay tại chỗ, hai tay để trên đầu. Tôi có cảm
giác là chúng tôi sắp bị xử tử…
Chúng tôi đứng bất động như vậy cho đến gần
10 giờ trưa. Nhìn qua khe cửa, tôi thấy mấy anh
em tù ở nhà 3 khiêng một số người bị thương lên bệnh
xá.
Cả ngày sau, tất cả tù đều không được ra khỏi
nhà, ngoại trừ đi ra cầu tiêu và ở đó cũng có đầy
lính gác. Sau đó, đúng vào ngày 2 tháng 9, Quốc khánh của VC, tất
cả chúng tôi được đưa lên hội trường. Ngồi chễm
chệ trên dãy bàn trước mặt chúng tôi là những
“thủ trưởng” không mang quân hàm, nên chúng tôi cũng chẳng
biết họ là ai. Chúng tôi bị “nghiêm khắc” cảnh
cáo là “có bọn phản động trong các anh đã dấu diếm
vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để nhằm phá hoại
thành quả kách mệnh”(!). Sau đó chúng tôi làm “bản tự
khai tội ác” và bắt đầu bài học số 1, “Đế
Quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta”.
Khi ấy chúng tôi mới biết tiếng nổ tối hôm ấy
đã xảy ra tại Nhà 3, làm chết và bị thương khá
nhiều. Mọi dấu tích đã được thu dọn sạch
sẽ, như chưa hề có việc gì xảy ra.
Có điều cái “sự cố” thảm khốc ấy, không phải
như lời “lên lớp” hù dọa của mấy ông thủ
trưởng, bởi một điều rất dễ hiểu là
ngay từ lúc vào trại cho đến bây giờ, đã qua hằng
trăm lần kiểm soát, vã lại hành trang mang theo của
mỗi người tù đâu có cái gì, ngoài hai bộ áo quần,
cái khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. Tiền bạc và tư
trang khác đã được “kách mạng” giữ hộ ngay sau
khi nhập trại. Vậy thì một trái lựu đạn
có phép màu nào lọt vào trong trại. Điều quan trọng
hơn, là nếu người tù nào dám liều mạng mang được
lựu đạn vào trại thì cũng chỉ nhằm mục
đích giết kẻ thù chứ sao lại giết chết bao
nhiêu bè bạn của mình?
Những câu hỏi đó đã có sự trả lời chính
xác ngay sau đó. Một số bạn tù ở Nhà 3 và Nhà kế
bên kể lại như sau:
Nhà 3 (chứa khoảng 80 tù nhân, đa số là SQ Cảnh Sát) nằm
đối diện ngay trước Khu Trực Ban và Nhà Vệ Binh của
Trại, chỉ cách nhau chừng hơn năm mét và một hàng rào kẻm
gai. Khi ấy tổ của nhạc sĩ Minh Kỳ đang họp
để phân công nấu bếp vào ngày mai, thì một quả
lựu đạn được quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người
chết tại chỗ và khoảng 8 người bị thương. Nhạc
sĩ Minh Kỳ bị thương rất nặng, được anh em
tù khiêng lên bệnh xá cùng với những anh em bị thương
khác. Ông bị thương ở ngực, bụng và cổ rất
nặng. Biết mình sắp chết nên trăn trối với
những bạn tù:
- Tụi mày về nói với vợ tao ráng nuôi con tao, chắc
tao không sống được.
Sau đó máu ở ngực và cổ chảy ra lênh láng. Ông vừa
la vừa rên :
- Sao chân lạnh quá!
- Lạnh quá! Sao bụng tao lạnh quá! Sao ngực tao lạnh
quá!
Ông chết từ từ, chết từ chân đến bụng
rồi đến ngực cho đến lúc tắt thở.
Một cái chết mà chính Ông cảm nhận được, biết
được nó đến với mình từng phút từng giây.
Sáng sớm hôm sau, anh em bạn tù, với sự giám sát của
toán vệ binh VC, đem chôn các bạn tù vắn số của
mình trên một mảnh rừng bên ngoài vòng đai phi
trường quân sự Biên Hòa.
Ai cũng biết là trái lựu đạn giết chết nhạc
sĩ Minh Kỳ cùng những người bạn tù khác, là do
chính bọn VC quăng từ khu trực ban của Trại phía
bên kia hàng rào.
(Có một số Sĩ Quan ngành đạn dược còn cho
là tiếng nổ ấy có thể là tiếng nổ của
đạn B40 hay B41, có sức tàn phá còn hơn cả lựu đạn).
Và cũng sau ngày ấy, chúng tôi phải chịu một
trò chơi trả thù ác độc từ phía những người
chiến thắng. Mỗi ngày chia nhau đi gỡ các bãi
mìn trong hàng rào phi trường quân sự Biên Hòa.
Họ đã bày ra cái trò giết người dấu tay ở
Nhà 3, để rồi lại lấy đó làm lý do giết tiếp
những người còn lại bằng cái trò chơi đẫm
máu “gỡ mìn” này.
Những bãi mìn này do Công Binh của ta thiết lập
chằng chịt dọc theo hệ thống phòng thủ
phi trường. Bây giờ, không có sơ đồ những bãi
mìn, chúng tôi lại là những người không chuyên môn về
mìn bẫy, có nhiều anh em giữ các chức vụ
tham mưu, hay được biệt phái về các bộ khác, chưa hề
thấy lại quả mìn sau ngày rời khỏi quân
trường. Vậy mà bây giờ phải tham dự cái
trò chơi bất nhân này. Ngày nào cũng có mìn phát nổ,
người chết, vài người mất tay, mất chân, nhưng vẫn
không làm giao động được tấm lòng của những
người “kách mạng!”.
Và cũng chính nhờ được cắt cử đi đào huyệt
chôn một người bạn tù chết mìn, sớm trả
“nợ máu” sau ngày miền Nam “giải phóng” này, đám chúng tôi mới
phát hiện được bốn ngôi mộ mới đã nằm
sẳn tại “nghĩa trang” vô danh trong một mảnh rừng
hoang. Trước mỗi ngôi mộ được đắp đất sơ
sài đó có cái bia làm bằng một mảnh gổ nhỏ. Bọn
chúng tôi lén đọc tên trên từng tấm bia viết bằng
sơn đỏ, trong đó có tên Vĩnh My (Vĩnh Mỹ?). Đó chính là
tên trong khai sinh của nhạc sĩ Minh Kỳ (Nguyễn
Phúc Vĩnh Mỹ). Dưới sự canh gác nghiêm ngặt của
đám vệ binh, tôi chẳng biết làm gì khác hơn là khi đi
ngang trước mộ anh để trở về trại, chắp
hai tay trước ngực và cúi đầu tưởng niệm anh cùng
những bạn bè xấu số đã chết tức tưởi
cùng anh.
Lòng tôi nhói lên đau đớn như vừa bị một nhát
chém hư vô nào đó. Trong tôi vừa mới mất thêm một điều
gì, mà với tôi nó trở thành thiêng liêng hơn là kỷ niệm.
Nhiều đêm sau đó tôi trằn trọc cả đêm không ngủ. Dư
âm những bài hát NhaTrang của anh lúc nào cũng văng vẳng
bên tai tôi. Tâm tư lúc nào cũng mơ màng đến thành phố Nha
Trang, đến ngôi trường Võ Tánh, nhớ da diết những
kỷ niệm ấu thơ, của những ngày đi học, và
hình dung đến từng khuôn mặt bè bạn thân quen… Cũng
mới đây thôi, mà bây giờ tưởng chừng như đã là một
quá khứ thật xa xăm, mơ hồ như kiếp trước.
Ba mươi năm chiến tranh trên quê hương đã đem lại biết
bao điều bi thảm. Vậy mà sau khi chiến tranh chấm
dứt lại còn nhiều bi thảm hơn. Cái chết của
nhạc sĩ Minh Kỳ cũng chỉ là một trong hàng vạn,
hàng triệu điều oan khiên bi thảm đó. Nhưng chúng ta xót xa
và nhớ đến nhạc sĩ Minh Kỳ, bởi chính
vì ông là một nghệ sĩ, một người đã
sống và cống hiến cho đời bằng chính trái tim
mình. Đặc biệt với những người Nha Trang
và những người yêu Nha Trang, đã mang ơn Ông vì Ông
đã cho chúng ta những dòng nhạc biểu tượng
của quê nhà, mà chúng ta sẽ mang theo dư âm tiếng hát cho đến
suốt cuộc đời.
Với tôi, những đau đớn này cứ tưởng chỉ
chôn chặt trong lòng, không ngờ sau khi xem chương
trình nhạc Lê-Dinh trên Thúy Nga Paris trước đây, trong đó
nhạc sĩ Lê-Dinh có nhắc tới cái chết của nhạc
sĩ Minh Kỳ, và mới đây là chương trình Huyền Thoại
Lê Minh Bằng trên Asia, đã làm tôi nhớ thật nhiều
đến cái chết của Ông và ngồi xuống viết lại
những dòng này.
Xin được thay một nén hương lòng đốt lên cho một
người đồng hương, đồng tù, bỏ bạn bè ra đi bằng
một cái chết thảm thương, oan khuất… Cũng để
được nói lên lòng tiếc thương một nhạc sĩ
tài hoa đã làm Nha Trang sống mãi trong lòng người.
Và nếu được phép, xin gởi một lời chia buồn
thật muộn màng nhưng với trọn tấm lòng đến
gia đình Ông.
Bắc Âu, một ngày không có
mặt trời
phạmtínanninh