NHỮNG B̀NH DIỆN
CỦA TÂM LINH Tác giả: Dalai Lama Thưa các
anh chị em, tôi muốn nói về đề tài những giá
trị tâm linh qua việc định nghĩa hai b́nh
diện hoạt động tâm linh hay tôn giáo. Để
bắt đầu tôi xin nói rằng, mục tiêu chính yếu
của con người là chúng ta muốn có một
đời sống hạnh phúc. Tất cả
chúng ta đều muốn có hạnh phúc. Chúng ta đều mưu cầu để
đạt được hạnh phúc, đó là điều
tự nhiên. Đó là mục đích trong
cuộc sống của chúng ta. Lư do rất rơ ràng khi
không c̣n hy vọng với đời sống này, chúng ta
trở nên đau khổ, buồn chán và có thể c̣n nghĩ
đến chuyện tự tử nữa. V́ vậy sự
sống của chúng ta bắt rễ sâu trong sự hy
vọng hay mong cầu. Dù không có ǵ bảo
đảm rằng tương lai sẽ mang lại một
cái ǵ đó, nhưng v́ có hy vọng nên chúng ta vẫn
tiếp tục sống. V́ thế có
thể nói rằng mục tiêu trong đời sống
của chúng ta là hạnh phúc. Con
người không phải là những sản phẩm của
máy móc. Chúng ta c̣n có một cái ǵ đó
vượt lên trên khối vật chất. Chúng ta có t́nh cảm và kinh nghiệm. V́ vậy chỉ có sự thỏa măn về
vật chất không thôi th́ không đủ. Chúng ta
cần có một cái ǵ sâu xa hơn, một thứ mà tôi
thường gọi là t́nh yêu con người, hay ḷng từ
bi. Với t́nh yêu nhân loại hay ḷng từ bi, tất cả
những lợi thế vật chất mà chúng ta đă có
sẵn có thể có tính chất xây dựng và có thể
tạo ra những kết quả tốt. Nhưng nếu
không có t́nh yêu nhân loại th́ lợi thế vật chất kia không giúp cho chúng ta có sự an lạc
hạnh phúc. Sự thật là sung măn về vật chất mà thiếu
vắng t́nh yêu chỉ có thể tạo ra thêm những
vấn đề rắc rối mà thôi. V́ vậy t́nh yêu nhân
loại hay ḷng từ bi là ch́a khóa đưa đến
hạnh phúc của cuộc đời. B́nh diện
tâm linh thứ nhất: Giá trị
các tôn giáo trên thế giới đối với loài
người Đối
với mọi người ở khắp nơi, b́nh
diện thứ nhất của tâm linh là niềm tin vào
một trong những tôn giáo của thế giới. Tôi nghĩ
rằng mỗi tôn giáo trên thế giới đều có
một vai tṛ quan trọng. Nhưng để cho
những tôn giáo này có sự đóng góp hữu hiệu cho
lợi ích của loài người, cần phải xem xét hai
nhân tố quan trọng sau đây: Nhân
tố thứ nhất là mỗi tín đồ của các tôn
giáo - tức là chính chúng ta - phải tu tập một cách
thành tâm. Giáo lư tôn giáo phải là một phần gắn
liền với đời sống của chúng ta, và không nên
phân cách với đời sống. Có khi chúng ta
đến nhà thờ hay chùa để cầu nguyện hay
phát tâm, sùng tín, và rồi đi ra khỏi tôn nghiêm đó,
đời sống của chúng ta không liên hệ ǵ
đến tôn giáo đó nữa. Đây không
phải là cách thực hành tôn giáo đúng đắn. Giáo nghĩa của tôn giáo phải gắn liền
với chúng ta dù chúng ta đang ở nơi đâu. Giáo
lư của tôn giáo mà chúng ta đă tin theo
phải có mặt ngay trong đời sống của chúng ta
để khi nào chúng ta thực sự cần có sự ban
ơn hay sức mạnh nội tâm, những giáo lư đó
sẽ có sẵn trong những lúc như vậy. V́ thế mỗi khi chúng ta gặp một sự
khó khăn nào đó, những giáo lư đó sẽ có mặt,
v́ chúng luôn hiện diện. Chỉ khi nào
tôn giáo trở thành một phần gắn liền với
đời sống của chúng ta th́ tôn giáo đó mới
thực sự có hiệu quả. Chúng ta
cũng cần phải chứng nghiệm sâu xa hơn ư
nghĩa và giá trị tinh thần của truyền thống
tôn giáo ḿnh theo, chúng ta cần phải
biết những giáo lư đó không chỉ ở mức tri
thức mà c̣n phải qua chứng nghiệm sâu xa. Có khi chúng
ta hiểu những giáo lư tôn giáo khác nhau một cách phiến
diện hay chỉ ở mức tri thức. Không
có sự cảm nhận sâu xa hơn th́ hiệu quả
của tôn giáo sẽ bị giới hạn. Vậy chúng ta phải tu tập một cách chí thành
và tôn giáo phải trở thành một phần của
đời sống của chúng ta. Sự
quan trọng của mối liên hệ mật thiết
giữa các tôn giáo. Nhân
tố thứ hai là liên quan nhiều đến sự
tương tác giữa các tôn giáo. Ngày nay v́ có sự gia tăng
những biến đổi kỹ thuật và tính chất
của nền kinh tế thế giới, chúng ta tùy
thuộc lẫn nhau nhiều hơn trước kia. Các quốc gia, các lục
địa đă có sự giao tiếp với nhau chặt
chẽ hơn. Thực tế là
đời sống của một khu vực trên thế
giới tùy thuộc vào sự sống c̣n của những
khu vực khác. V́ vậy thế giới đă trở
nên gần gũi hơn, tùy thuộc vào
nhau nhiều hơn. Kết quả là có thêm sự
tương tác giữa mọi người. Trong hoàn cảnh như vậy ư tưởng đa
nguyên giữa các tôn giáo là điều rất quan trọng.
Trước đây các cộng đồng sống phân cách
nhau và các tôn giáo xuất hiện một cách tương
đối đơn độc, ư tưởng cho rằng
chỉ có một tôn giáo mà ḿnh tin theo là
rất hữu dụng, nhưng ngày nay t́nh trạng ấy
đă thay đổi, và hoàn cảnh cũng đă khác
biệt. V́ vậy chúng ta cần phải
chấp nhận sự thật là có sự hiện hữu
của nhiều tôn giáo khác nhau, và để phát triển
sự tôn trọng lẫn nhau thực sự giữa các tôn
giáo, phải có sự tiếp xúc mật thiết giữa
các tôn giáo đó. Nhân tố thứ hai này
sẽ làm cho các tôn giáo của thế giới có hiệu
quả nhiều hơn trong việc làm lợi ích cho loài
người. Hồi
tôi c̣n ở Tây Tạng, tôi không tiếp xúc với các tín
ngưỡng khác, thái độ của tôi đối
với tôn giáo đă không tích cực lắm. Nhưng ngay khi
tôi có cơ hội tiếp xúc với những người
thuộc các tín ngưỡng khác và học được
từ sự tiếp xúc trực tiếp và từ kinh nghiệm,
thái độ của tôi đối với các tôn giáo khác
đă thay đổi. Tôi đă nhận ra
rằng các tôn giáo khác có ích lợi nhiều cho loài
người và mỗi tôn giáo đều có tiềm năng
đóng góp cho việc thiết lập một thế
giới tốt đẹp hơn. Trong mấy thế
kỷ vừa qua, các tôn giáo đă đóng góp nhiều cho phúc
lợi của loài người và ngay cả ngày nay vẫn
có đông đảo tín đồ của Ky Tô Giáo, Hồi
Giáo, Do Thái Giáo, Phật Giáo, Ấn Độ Giáo và các tôn
giáo khác. Hàng triệu người đang
nhận được lợi ích từ các tôn giáo này. Một
thí dụ về sự gặp gỡ giữa những
người thuộc các tín ngưỡng khác nhau là việc
tôi gặp Linh Mục Thomas Merton đă làm cho tôi nhận ra
rằng ông là một người có những đức tính
tuyệt vời.
Một lần khác tôi gặp một tu sĩ Ky Tô Giáo khác ở Monserrat, một trong những
tu viện nổi tiếng của Tây Ban Nha. Tôi
được biết vị tu sĩ này đă ẩn tu
trên một quả đồi ở ngay phía sau tu viện.
Khi tôi đến thăm tu viện, ông ra khỏi am thất
và xuống đồi để gặp tôi. Tôi
nhận thấy tiếng Anh của ông ta c̣n dở hơn
tiếng Anh của tôi. Điều này làm cho tôi có thêm
can đảm để nói chuyện với ông ta. Chúng tôi
đối diện với nhau và tôi hỏi “trong mấy
năm nay ngài làm ǵ ở trên quả đồi đó?”, ông ta nh́n tôi rồi trả lời “chiêm
nghiệm về ḷng từ bi và bác ái”. Khi nghe
mấy lời này và qua ánh mắt của ông ta tôi hiểu
được ư tưởng của ông. Tôi thực
sự khâm phục con người này và những
người giống như ông ta. Những
cuộc gặp gỡ như vậy giúp tôi khẳng
định rằng tất cả các tôn giáo của thế
giới đều có tiềm năng sản sinh những
người tốt, dù triết lư và giáo thuyết của
các tôn giáo đó có khác nhau. Mỗi tôn giáo
đều có thông điệp giá trị của ḿnh
để truyền cho mọi người. Theo quan
điểm của Phật Giáo th́ ư niệm về một
đấng sáng tạo là vô lư, cách phân tích nhân duyên của
Phật Giáo làm cho người không theo Phật Giáo cảm
thấy khó hiểu ư niệm về lời dạy này. Tuy nhiên chúng ta không thảo luận những
vấn đề về triết lư ở đây.
Điểm quan trọng ở đây là đối với
những người tin theo những giáo
lư mà ở trong đó chính yếu là tin vào một
đấng sáng tạo, điều này có nhiều hiệu
quả. Theo những truyền thống đó, con
người do Thượng Đế tạo ra. Thêm
nữa, như những người bạn Ky Tô Giáo của
tôi đă cho tôi biết, họ không chấp nhận
thuyết luân hồi, và do đó họ không tin là
người ta sẽ có những kiếp quá khứ và
những kiếp sống ở tương lai. Họ chỉ chấp nhận một kiếp
hiện tại này mà thôi. Họ cho rằng kiếp
sống này là do Thượng Đế tạo ra, và ư
tưởng đó làm cho họ có cảm giác gần gũi
với Thượng Đế. Giáo lư quan trọng nhất
của họ là Thượng Đế muốn họ có
ở đây, v́ vậy tương lai của họ
đều tùy thuộc vào đấng sáng tạo, chính v́
thế mà đấng toàn năng được xem là thiêng
liêng và tối thượng nên họ phải kính yêu. Tiếp theo những điều này là giáo lư dạy
rằng họ phải yêu thương mọi người
khác và đó là thông điệp chính trong giáo lư của
họ. Lư do là nếu yêu thương Thượng
Đế, chúng ta cũng phải yêu thương
đồng loại, v́ họ giống như chúng ta,
cũng do Thượng Đế tạo ra. Tương lai
của họ cũng giống như chúng ta, tùy thuộc vào
đấng sáng tạo, và v́ vậy số phận của
họ giống số phận của chúng ta. Như vậy
niềm tin của những người nói “tôi kính yêu
Thượng Đế”, nhưng không biểu lộ t́nh yêu
chân thật đối với đồng loại là
điều đáng nghi ngờ. Người tin vào
Thượng Đế phải biểu lộ sự thành
tâm kính yêu Thượng Đế của ḿnh qua sự yêu
thương trực tiếp dành cho đồng loại,
Cách thể hiện này gây ấn tượng mạnh có
phải thế không? Vậy chúng
ta xét mỗi tôn giáo từ nhiều góc độ khác nhau
với cùng một cách, không chỉ từ quan điểm
triết lư của ḿnh mà từ nhiều quan điểm khác
nhau, chúng ta sẽ thấy chắc chắn rằng tất
cả các tôn giáo lớn đều có tiềm năng
cải thiện con người. Điều
này là hiển nhiên. Qua sự tiếp xúc
thân mật với những người thuộc các tín
ngưỡng khác, chúng ta có thể phát triển một thái
độ dễ cảm thông và tôn trọng lẫn nhau
đối với các tôn giáo khác. Việc
tiếp xúc thân mật với các tôn giáo khác nhau giúp tôi
học được những ư tưởng mới,
những pháp thực hành mới, những phương pháp
hay kỹ thuật mới mà tôi có thể phối hợp
với pháp môn tu tập của chính ḿnh. Tương
tự, một số những người bạn Ky Tô Giáo
đă chấp nhận một số pháp tu nào đó của
Phật Giáo, thí dụ như pháp trụ tâm và những phương
pháp phát triển ḷng khoan dung, từ bi và t́nh yêu
thương. Chúng ta sẽ đạt được
nhiều lợi ích khi tín đồ của các tôn giáo
đến với nhau để làm công việc trao
đổi theo loại này. Thêm vào sự
ḥa hợp giữa họ là những chính trị gia và các nhà
lănh đạo của các quốc gia thường nói về
“sống chung” và “đến với nhau”.
Tại sao những người theo tôn
giáo của chúng ta không nói được như vậy? Tôi nghĩ rằng đă đến lúc nên chia
sẻ và thực hành. Thí dụ, ở Assisi vào năm
1987, các nhà lănh đạo và đại biểu của các
tôn giáo đă gặp nhau để cầu nguyện cùng
với nhau, dù tôi không biết chắc “cầu nguyện” có
phải là từ ngữ chính xác để diễn tả
nghi thức của tất cả các tôn giáo hay không. Nhưng
điều quan trọng ở đây là các đại
biểu của các tôn giáo đă đến với nhau ở
một địa điểm và cầu nguyện theo niềm tin của ḿnh. Điều
này đă xảy ra và tôi nghĩ rằng đây là một
sự kiện rất tích cực. Tuy
vậy, chúng ta vẫn cần có thêm nỗ lực cho
việc phát triển sự ḥa hợp và thân thiện
giữa các tôn giáo, v́ nếu không có nỗ lực đó,
những vấn đề gây chia rẽ loài người
sẽ vẫn tồn tại. Nếu tôn
giáo được xem là phương thuốc duy nhất
để giảm thiểu sự tranh chấp giữa loài
người, nhưng chính phương thuốc đó
lại trở thành một nguồn tranh chấp nữa, rơ
ràng là một tai họa. Ngày
nay cũng như trong quá khứ, những cuộc tranh
chấp đă diễn ra nhân danh tôn giáo v́ những khác
biệt niềm tin, đây là điều rất đáng
buồn. Nhưng như tôi đă nói,
nếu chúng ta suy nghĩ một cách rộng răi và sâu xa
hơn một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rằng
t́nh trạng trong quá khứ hoàn toàn khác với ngày nay. Chúng ta không c̣n cô lập nữa mà tùy thuộc
lẫn nhau. V́ vậy ngày nay điều quan trọng
là nhận thức mối liên hệ thân mật giữa các
tôn giáo là thiết yếu, để các cộng đồng
tôn giáo khác nhau có thể làm việc với nhau và tạo
nỗ lực chung để mang lại
lợi ích cho loài người. Vậy,
một mặt là sự thành tâm và niềm tin trong tu tập
tôn giáo, và một mặt khác là sự khoan dung và sự
hợp tác giữa các tôn giáo, hai điều này là b́nh
diện thứ nhất của giá trị thực hành tâm
linh cho loài người. B́nh diện
thứ hai: từ bi như là một tôn giáo toàn
cầu: B́nh
diện thứ hai quan trọng hơn mức thứ
nhất, bởi v́ dù một tôn giáo có thể thâm diệu
đến đâu, tôn giáo đó cũng chỉ
được một số người rất giới
hạn chấp nhận. Phần lớn của sáu tỷ
người trên hành tinh chúng ta không thực hành một tôn
giáo nào hết. Theo truyền thống của gia
đ́nh, họ có thể xem ḿnh là tín đồ của tôn
giáo này hay tôn giáo khác: “Tôi là người Ấn Độ
Giáo”. “Tôi theo Phật Giáo”, “Tôi là tín
đồ Ky Tô Giáo”, nhưng ở bên trong đa số
của những người này không thực hành một tín
ngưỡng nào cả. Điều này không phải là
tội lỗi, một người có tin theo
một tôn giáo hay không, đó là quyền cá nhân của
người đó. Tất cả các vị thầy vĩ
đại ngày xưa như Phật Thích Ca, Mahavira, Jesus
Christ, và Mohamed, đă không thể làm cho toàn thể loài
người hướng tâm đến tôn giáo. Sự thật là không ai có thể làm
được điều này. Những người
“không tin” đó có được gọi là vô thần hay
không th́ không phải là điều quan trọng. Thật
vậy, theo một số học giả Tây Phương th́
những tín đồ Phật Giáo cũng là vô thần, v́
họ không tin có một đấng sáng tạo. V́ vậy, có những khi tôi dùng thêm một từ
ngữ nữa để mô tả những người
không tin này, đó là “cực đoan”. Tôi
gọi họ là những người không tin cực
đoan. Họ không chỉ không tin mà c̣n
có quan điểm cực đoan cho rằng tôn giáo không có
giá trị ǵ cả. Tuy nhiên chúng ta
phải nhớ rằng những người này cũng là
một phần của nhân loại, và giống như
tất cả mọi người, họ cũng muốn có
hạnh phúc và có đời sống an lạc. Đây mới là điểm quan trọng. Tôi nghĩ
rằng nếu người ta vẫn cứ là người
không tin vào tâm linh th́ cũng không tai
hại ǵ, nhưng khi người ta là một phần
của nhân loại, c̣n là một con người th́
người ta vẫn cần đến t́nh cảm của
con người, ḷng từ bi của loài người. Đây chính là giáo lư cốt tủy của tất
cả các truyền thống tôn giáo. Không có t́nh cảm
con người th́ ngay cả những tín điều tôn giáo
cũng có thể trở thành loại h́nh có tính chất
hủy diệt. Như vậy ở bên trong
hầu hết các tôn giáo, điều cốt yếu là
tấm ḷng tốt. Tôi xem t́nh cảm con người
hay ḷng từ bi, chính là tôn giáo toàn cầu, tôn giáo phổ
quát. Dù có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, ai cũng
cần có t́nh cảm con người và ḷng từ bi, bởi
v́ từ bi giúp cho ta có sức mạnh nội tâm, hy vọng
và an lạc tâm trí. Vậy, đối với
mọi người, đây là tính chất không thể
thiếu vắng. Chúng
ta hăy xét sự hữu ích của ḷng tốt trong đời
sống hằng ngày. Khi thức dậy vào buổi sáng, nếu chúng ta
có tâm trạng tốt, có cảm giác nồng ấm, th́ trong
ngày hôm đó cánh cửa nội tâm của chúng ta tự
động mở ra. Ngay khi cả một
người không thân thiện xuất hiện chúng ta
cũng không cảm thấy phiền ḷng mà lại c̣n có
thể nói những lời tốt đẹp nào đó
với người đó. Chúng ta có
thể tṛ chuyện với người lạ đó và có
thể có một cuộc đàm thoại có ư nghĩa.
Nhưng trong một ngày khi tâm trạng của chúng ta không
hoan hỷ và chúng ta có cảm giác khó chịu, th́ ngày đó
cánh cửa nội tâm của chúng ta tự động
đóng bít lại. Hậu quả là dù gặp
người bạn thân nhất chúng ta cũng cảm
thấy không dễ chịu và căng thẳng như
thường. Những thí dụ này cho
thấy thái độ bên trong của chúng ta tạo ra
những khác biệt lớn trong đời sống
hằng ngày như thế nào. V́ vậy
để tạo bầu không khí dễ chịu trong tâm trí,
trong gia đ́nh và trong cộng đồng, chúng ta phải
nhận thức rằng nguồn gốc của bầu
không khí dễ chịu đó là ở bên trong mỗi cá nhân,
ở bên trong mỗi con người chúng ta. Nguồn gốc đó là ḷng tốt, từ bi hay
t́nh yêu con người. Một
khi chúng ta tạo bầu không khí dễ chịu và thân
thiện, nó sẽ tự động giúp giảm trừ
sự lo âu và sợ hăi. Như vậy chúng ta dễ có thêm bạn bè và
dễ có thêm những nụ cười. Dù sao
chúng ta cũng là những sinh vật có đời sống
hợp quần xă hội. Nếu không có bạn bè và
những nụ cười th́ đời sống của
chúng ta sẽ trở nên khó khăn hơn, cảm giác cô
đơn sẽ hành hạ chúng ta. Đó là quy luật
tự nhiên, tức là theo luật tự
nhiên, chúng ta tùy thuộc vào người khác để
sống c̣n. Nếu trong một hoàn cảnh nào
đó, có một điều ǵ không ổn trong tâm tư,
chúng ta có thái độ đối nghịch với
người khác, vốn là những người mà chúng ta
tùy thuộc, làm sao chúng ta có được an lạc và hạnh
phúc. Theo bản tính của con người hay luật
tự nhiên, th́ t́nh cảm và ḷng từ bi là ch́a khóa mở
cửa hạnh phúc. Y học ngày
nay nói rằng trạng thái tâm dễ chịu hay an lạc
nội tâm cũng có ích lợi cho sức khỏe cơ
thể chúng ta. Nếu tâm trí luôn xao
động sẽ làm hại đến sức khỏe, an
lạc nội tâm là điều rất quan trọng.
Thể xác vật chất cũng biết cảm nhận và
đáp ứng t́nh cảm con người và an lạc
nội tâm. Bản tính
con người Khi nh́n vào
bản tính con người, chúng ta thấy tính chất
của con người hiền ḥa nhiều hơn là thù
hận. Thí dụ khi xem xét những động vật khác,
chúng ta thấy những loài có tính hiếu ḥa hơn th́ có
cấu trúc cơ thể tương ứng với tính
chất đó, c̣n những loài thú săn mồi th́ có thân
h́nh phát triển tùy theo tính hung bạo
của chúng. Hăy so sánh loài cọp với loài
nai, chúng có cấu trúc cơ thể rất khác nhau. Khi
so sánh thân thể con người với những sinh
vật khác, chúng ta thấy con người giống con nai và
con thỏ hơn là giống con cọp. Răng của chúng
ta cũng giống như răng của nai và thỏ và không
giống như răng cọp, móng tay
của chúng ta là một ví dụ khác, chúng ta không thể
bắt nổi một con chuột chỉ bằng móng tay
của ḿnh. Tất nhiên v́ có trí thông minh
của loài người, chúng ta có thể chế tạo và
dùng những công cụ để làm nhiều việc, thí
dụ để săn bắt những loài vật khác.
Vậy con người thuộc loại động vật
hiền ḥa chứ không thuộc loại ác thú. Tôi nghĩ rằng đây là bản chất của
loài người, như cấu trúc cơ thể con
người đă cho thấy điều đó. Từ bi và
giải pháp loại bỏ sự xung đột Với
t́nh trạng thế giới ngày nay, sự hợp tác là
điều cần yếu, đặc biệt là ở trong
những lănh vực kinh tế và giáo dục. Hiện tại,
ư kiến cho rằng cần phải có sự khác nhau đă
không c̣n được ủng hộ nữa, như chúng ta
đă thấy phong trào hướng về sự hợp
nhất của quốc gia Tây Âu. Tôi
nghĩ rằng phong trào này rất hợp lư và đúng lúc.
Nhưng sự hợp tác giữa các quốc gia này không phát
xuất từ đạo đức tôn giáo hay ḷng từ bi
mà từ nhu cầu cần thiết. Thế giới đang
có sự gia tăng khuynh hướng về ư thức toàn
cầu. Trong hoàn cảnh hiện tại
một mối liên hệ mật thiết giữa các
quốc gia đă trở thành nhân tố của sự
sống c̣n của loài người. V́
vậy ngày nay điều cần yếu là ư niệm trách
nhiệm toàn cầu dựa trên từ bi và ư thức về
t́nh huynh đệ giữa mọi người.
Thế giới có đầy những sự mâu thuẫn
về ư thức hệ, về tôn giáo, và cả những
sự xung đột ngay bên trong gia đ́nh do bất
đồng ư kiến, Vậy những sự xung
đột này có nhiều nguyên nhân khác nhau, kể cả
những nguyên nhân ở bên trong bản thân của chúng ta. Nhưng
mỗi chúng ta có tiềm lực và khả năng
đến với nhau trong sự ḥa hợp. Tất cả
những điều khác chỉ có tính chất tương
đối. Có nhiều nguyên nhân gây ra sự
đối địch hay tranh chấp, nhưng cũng có
nhiều giải pháp đưa đến sự thống
nhất và ḥa hợp. Đă đến lúc cùng
hướng đến mục tiêu hợp nhất. Ở đây cũng phải nói đến t́nh
cảm giữa mọi người. Thí
dụ, có thể bạn có lư tưởng hay ư kiến tôn
giáo khác một người nào đó. Nếu bạn
tôn trọng quyền tự do của người đó và
thành thực có thái độ từ bi đối với
người đó th́ ư kiến của người đó có
phù hợp với bạn hay không không là điều quan
trọng nữa. Khi người đó tin vào ư
kiến của ḿnh, khi người đó nhận
được sự lợi ích từ ư kiến ấy th́
đó là quyền tuyệt đối của người
ấy. Vậy chúng ta phải tôn
trọng quyền của người khác và chấp
nhận sự kiện có những ư kiến khác với ḿnh.
Trong lănh vực kinh tế cũng vậy,
người ta phải tôn trọng những người
cạnh tranh với ḿnh, miễn là họ không dùng những
phương cách bất hợp pháp. Khi
chúng ta có cái nh́n rộng răi dựa trên ḷng từ bi, sự
việc sẽ trở nên dễ dàng hơn. Xin nhắc lại một lần nữa, từ bi
là nhân tố chính yếu. Phi quân
sự hóa Hiện
tại t́nh trạng thế giới đă lắng dịu
đáng kể. Bây giờ chúng ta có thể nghĩ và nói một cách
nghiêm chỉnh về phi quân sự hóa. Năm năm
trước đây, hay chỉ mới hai năm
trước đây, người ta khó có thể nghĩ
đến điều này, nhưng bây giờ chiến tranh
lạnh giữa Liên Xô cũ và Hoa Kỳ đă qua rồi. Đối với Hoa Kỳ, tôi luôn luôn nói với
những người bạn Mỹ của tôi rằng
“sức mạnh của các bạn không phải là vũ khí
hạt nhân mà là ư tưởng cao quư về tự do và dân
chủ của các vị tổ phụ của các bạn”.
Khi tôi viếng thăm Mỹ quốc vào
năm 1991, tôi đă có cơ hội gặp cựu tổng
thống George Bush. Lúc đó chúng tôi
thảo luận về Trật Tự Thế Giới
Mới (A New World Order) và tôi nói với ông ấy rằng
“một trật tự thế giới mới là
điều rất tốt. Tôi không
thể nói chắc chắn như vậy về một
trật tự thế giới mới mà không có ḷng từ
bi”. Tôi tin
rằng đă đến lúc nghĩ và nói về phi quân
sự hóa. Đă có một dấu hiệu
về sự giảm thiểu vũ khí, và lần
đầu tiên, phi hạt nhân hóa. Từng
bước một, chúng ta thấy sự giảm thiểu
vũ khí, và tôi nghĩ rằng mục tiêu của chúng ta là
làm cho thế giới không có vũ khí nữa. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta nên
hủy bỏ mọi h́nh thức vũ trang. Có thể chúng ta cần giữ lại một chút
nào đó, v́ luôn luôn có những người và những nhóm
trong chúng ta có ư định xấu. Để pḥng
bị và giữ an ninh, chúng ta có thể thiết lập
một hệ thống với những lực lượng
cảnh sát quốc tế do khu vực điều hành, không
nhất thiết là phải thuộc về một quốc
gia mà điều khiển tập thể và được
một tổ chức như Liên Hiệp Quốc hay một
tổ chức quốc tế tương tự giám sát. Như vậy khi không có sẵn vũ khí, sẽ
không có nguy cơ đối địch quân sự giữa các
quốc gia và cũng sẽ không có những cuộc nội
chiến. Cho
đến nay chiến tranh vẫn là một phần
của lịch sử loài người, nhưng tôi nghĩ
rằng đă đến lúc phải thay đổi
những tư tưởng dẫn đến chiến
tranh. Có những
người xem chiến tranh là một cái ǵ vinh quang, họ
nghĩ rằng chiến tranh có thể làm cho họ trở
thành anh hùng. Thái độ thiên về chiến
tranh này quả thật là sai lầm. Mới đây
một phóng viên nói với tôi “Người Tây Phương
rất sợ chết, c̣n người Đông Phương
có vẻ ít sợ hơn” (Westerners have a great fear of death, but
Easterners seem to have very little fear death). Tôi đáp
với giọng nửa đùa “Tôi thấy có lẽ
đối với người Tây Phương, chiến
tranh và quân đội là những điều rất quan
trọng. Chiến tranh có nghĩa là
chết, v́ người ta giết nhau chứ không v́
những nguyên nhân tự nhiên. Như
vậy có thể nói người Tây Phương chính là
những người không sợ chết, v́ họ ưa
thích chiến tranh. Người Đông
Phương chúng tôi, đặc biệt là người Tây
Tạng, không nghĩ đến chiến tranh. Chúng tôi
không có quan niệm về chiến tranh, v́ chiến tranh là
hủy diệt, là chết, là thương vong và kéo theo những khổ đau khác. V́
vậy đối với chúng tôi, ư tưởng chiến
tranh rất tiêu cực. Như vậy có
nghĩa là người Đông Phương sợ chết
hơn người Tây Phương”. V́
những nguyên nhân nào đó ư tưởng chiến tranh
của loài người chúng ta không đúng. V́ vậy đă đến lúc để suy nghĩ
một cách nghiêm túc về phi quân sự hóa. Tôi
đă suy nghĩ nhiều về việc này trong khi và sau khi
chiến tranh vùng vịnh Ba Tư diễn ra. Tất nhiên nhiều
người đă buộc tội Sadam Hussein và rơ ràng Saddam Hussein đă
phạm lỗi. Ông ấy đă làm nhiều
điều sai lầm. Hơn nữa, ông
ấy là một nhà độc tài, mà một chế
độ độc tài th́ là một sự sai lầm.
Tuy nhiên, nếu không có quân đội, không có
vũ khí th́ làm sao Saddam Hussein có thể hành động
như một nhà độc tài như vậy? Ai cung cấp những vũ khí ấy? Người cung cấp vũ khí cũng phải
chịu trách nhiệm. Một số
quốc gia Tây Phương nào đó đă cung cấp vũ
khí cho ông ấy mà không nghĩ đến hậu quả. Chỉ
nghĩ đến tiền, đến lợi nhuận
từ việc bán vũ khí là điều thật kinh
khủng. Có lần tôi gặp một người Pháp đă
sống nhiều năm ở V́
vậy kể từ chiến tranh vùng Vịnh, tôi đă
thệ nguyện với chính ḿnh rằng cho đến
cuối đời tôi sẽ đóng góp cho việc
đẩy mạnh ư tưởng phi quân sự hóa. C̣n về tổ
quốc của tôi th́ tôi đă nhất quyết nghĩ
rằng trong tương lai, Tây Tạng sẽ phải là
một khu vực hoàn toàn phi quân sự. Một
lần nữa, để thực hiện phi quân sự hóa,
nhân tố then chốt là ḷng từ bi. Kết
luận: ư nghĩa của từ bi Tôi
đă nói nhiều về từ bi mà không giải thích ư
nghĩa chính xác của từ ngữ này. Tôi muốn
kết luận bằng việc giải thích ư nghĩa
của từ bi, vốn là từ ngữ thường
bị hiểu lầm. Ḷng từ bi đích thực
không dựa trên ư tưởng và ư muốn của riêng ḿnh,
mà dựa trên quyền lợi của người khác: dù
người khác là bạn thân hay kẻ thù, nếu
người đó muốn ḥa b́nh và hạnh phúc hay muốn
thoát khỏi khổ đau, chúng ta sẽ thực sự quan
tâm đến vấn đề người đó. Đó là ḷng từ bi đích thực. Thông
thường khi chúng ta quan tâm đến một người
bạn thân, chúng ta cho đó là từ bi. Đây
không phải là từ bi mà là một h́nh thức tham ái.
Trong hôn nhân những cặp vợ chồng
sống lâu dài với nhau là không v́ tham ái, dù tham ái
thường có mặt, mà v́ có ḷng từ bi. Những cuộc hôn nhân sẽ ngắn ngủi
nếu không có từ bi mà chỉ có cảm xúc tham ái dựa
trên vọng niệm và ư muốn của riêng ḿnh. Khi giữa những người bạn thân
chỉ có sự tham ái th́ ngay cả những vấn
đề nhỏ cũng làm cho người ta thay
đổi ư tưởng khi có sự thay đổi th́ tham
ái không c̣n, v́ sự tham ái đó chỉ dựa trên vọng
niệm và mong cầu. Không
thể có từ bi mà không có tham ái, và tương tự không
thể có sự nổi giận mà không có sự ghét bỏ,
v́ vậy chúng ta phải nhận rơ sự khác nhau giữa
từ bi và tham ái, giữa nổi giận và ghét bỏ. Sự phân biệt rơ ràng này có
ích lợi trong đời sống hằng ngày của chúng
ta, và trong nỗ lực tiến đến ḥa b́nh thế
giới của chúng ta. Tôi xem đây là những giá trị
tâm linh căn bản cho hạnh phúc của mọi
người, dù là người có tín ngưỡng hay là
người không có tín ngưỡng. |